Việt Nam - tổ quốc
của nhiều dân tộc. Các dân tộc cùng là con cháu của Lạc Long Quân - Âu
Cơ, nở ra từ trăm trứng, nửa theo mẹ lên núi, nửa theo cha xuống biển,
cùng mở mang xây dựng non sông "Tam sơn, tứ hải, nhất phần điền", với
rừng núi trùng điệp, đồng bằng sải cánh cò bay và biển Đông bốn mùa sóng
vỗ; bờ cõi liền một dải từ chỏm Lũng Cú (Bắc) đến xóm Rạch Tàu (Nam),
từ đỉnh Trường Sơn (Tây) đến quần đảo Trường Sa (Đông).
Cùng chung sống lâu
đời trên một đất nước, các dân tộc có truyền thống yêu nước, đoàn kết
giúp đỡ nhau trong chinh phục thiên nhiên và đấu tranh xã hội, suốt quá
trình lịch sử dựng nước, giữ nước và xây dựng phát triển đất nước.
Lịch sử chinh phục
thiên nhiên là bài ca hùng tráng, thể hiện sự sáng tạo và sức sống mãnh
liệt, vượt lên mọi trở ngại thích ứng với điều kiện tự nhiên để sản
xuất, tồn tại và phát triển của từng dân tộc. Với điều kiện địa lý tự
nhiên (địa mạo, đất đai, khí hậu...) khác nhau, các dân tộc đã tìm ra
phương thức ứng xử thiên nhiên khác nhau.
Ở đồng bằng và trung
du, các dân tộc làm ruộng, cấy lúa nước, dựng nên nền văn hoá xóm làng
với trung tâm là đình làng, giếng nước cây đa, bao bọc bởi lũy tre gai
góc đầy sức sống dẻo dai. Đồng bằng, nghề nông, xóm làng là nguồn cảm
hứng, là "bột" của những tấm áo mớ ba mớ bảy, của dải yếm đào cùng nón
quai thao, của làn điệu quan họ khoan thai mượt mà và của khúc dân ca
Nam Bộ ngân dài chứa đựng sự mênh mông của đồng bằng sông Cửu Long.
Ở vùng thấp của miền
núi, các dân tộc trồng lúa nước kết hợp với sản xuất trên khô để trồng
lúa nương, trồng ngô, bước đầu trồng các cây công nghiệp lâu năm (cây
hồi, cây quế...), thay thế cho rừng tự nhiên. Họ sống trên những nếp nhà
sàn, mặc quần, váy, áo màu chàm với nhiều mô típ hoa văn mô phỏng hoa
rừng, thú rừng. Đồng bào có tục uống rượu cần thể hiện tình cảm cộng
đồng sâu sắc. Người uống ngây ngất bởi hơi men và đắm say bởi tình
người.
Ở vùng cao Việt Bắc,
Tây Nguyên, đồng bào chọn phương thức phát rừng làm rẫy - là cách ứng xử
thiên nhiên của thời đại tiền công nghiệp. Vùng cao, khí hậu á nhiệt
đới, việc trồng trọt chủ yếu thực hiện trong vụ hè thu. Để tranh thủ
thời tiết và quay vòng đất, từ ngàn xưa người vùng cao đã phát triển xen
canh gối vụ, vừa tăng thu nhập vừa bảo vệ đất khỏi bị xói mòn bởi những
cơn mưa rào mùa hạ. Bàn tay khéo léo và tâm hồn thẩm mỹ của các cô gái
đã tạo ra những bộ trang phục: váy, áo với những hoa văn sặc sỡ hài hoà
về mầu sắc, đa dạng về mô típ, mềm mại về kiểu dáng, thuận cho lao động
trên nương, tiện cho việc đi lại trên đường đèo, dốc. Núi rừng hoang sơ
cùng với phương thức canh tác lạc hậu là mảnh đất phát sinh và phát
triển các lễ nghi đầy tính huyền bí, huyền ảo. Hầu hết các cư dân Tây
Nguyên đều có tục đâm trâu làm lễ cúng Giàng (trời), cầu xin sự phù hộ
của Giàng cho người sức khoẻ, cho gia súc và cho mùa màng bội thu. Đây
cũng là vùng tiềm ẩn nhiều truyện thần thoại, nhiều sử thi anh hùng mà
giá trị của nó có thể sánh được với các truyện thần thoại của Trung
Quốc, ấn Độ nhưng chưa được sưu tầm và nghiên cứu đầy đủ. Đồng bào là
chủ nhân sáng tạo ra những bộ đàn đá, đàn T'rưng, đàn Krông pút... những
bộ cồng chiêng và những điệu múa tập thể dân dã, khỏe khoắn kết bó cộng
đồng.
Dọc theo bờ biển từ
Bắc vào Nam, các dân tộc sống bằng nghề chài lưới. Cứ sáng sáng đoàn
thuyền của ngư dân giăng buồm ra khơi, chiều lại quay về lộng. Cuộc sống
ở đây cũng nhộn nhịp, khẩn trương như nông dân trên đồng ruộng ngày
mùa.
Ở khắp nơi, con người hoà nhập vào thiên nhiên, thiên nhiên cũng biết chiều lòng người, không phụ công sức người.
Sống trên mảnh đất
Đông Dương - nơi cửa ngõ nối Đông Nam Á lục địa với Đông Nam Á hải đảo,
Việt Nam là nơi giao lưu của các nền văn hoá trong khu vực. ở đây có đủ 3
ngữ hệ lớn trong khu vực Đông Nam Á, ngữ hệ Nam đảo, và ngữ hệ Hán -
Tạng. Tiếng nói của các dân tộc Việt Nam thuộc 8 nhóm ngôn ngữ khác
nhau:
- Nhóm Việt - Mường có 4 dân tộc là: Chứt, Kinh, Mường, Thổ.
- Nhóm Tày - Thái có 8 dân tộc là: Bố Y, Giáy, Lào, Lự, Nùng, Sán Chay, Tày, Thái.
- Nhóm Môn - Khmer có 21 dân tộc là:
Ba na, Brâu, Bru-Vân kiều, Chơ-ro, Co, Cơ-ho, Cơ-tu, Gié-triêng, Hrê,
Kháng, Khmer, Khơ mú, Mạ, Mảng, M'Nông, Ơ-đu, Rơ-măm, Tà-ôi, Xinh-mun,
Xơ-đăng, Xtiêng.
- Nhóm Mông - Dao có 3 dân tộc là: Dao, Mông, Pà thẻn.
- Nhóm Kađai có 4 dân tộc là: Cờ lao, La Chí, La ha, Pu péo.
- Nhóm Nam đảo có 5 dân tộc là: Chăm, Chu-ru, Ê đê, Gia-rai, Ra-glai.
- Nhóm Hán có 3 dân tộc là: Hoa, Ngái, Sán dìu.
- Nhóm Tạng có 6 dân tộc là: Cống, Hà nhì, La hủ, Lô lô, Phù lá, Si la.
Mặc dù tiếng nói của
các dân tộc thuộc nhiều nhóm ngôn ngữ khác nhau, song do các dân tộc
sống rất xen kẽ với nhau nên một dân tộc thường biết tiếng các dân tộc
có quan hệ hàng ngày, và dù sống xen kẽ với nhau, giao lưu văn hoá với
nhau, nhưng các dân tộc vẫn lưu giữ được bản sắc văn hoá riêng của dân
tộc mình. Ở đây cái đa dạng của văn hoá dân tộc được thống nhất trong
quy luật chung - quy luật phát triển đi lên của đất nước, như cái riêng
thống nhất trong cái chung của cặp phạm trù triết học.
Thời đại Hồ Chí Minh
mở đầu bằng thắng lợi của Cách mạng tháng 8/1945 đã đổi đời các dân tộc.
Chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta nhất quán từ đầu là bình
đẳng, đoàn kết, tương trợ lẫn nhau, cùng nhau xây dựng đất nước theo mục
tiêu: dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng văn minh, văn hoá đậm đà bản
sắc dân tộc.
Thực hiện chính sách
dân tộc đúng đắn và sáng tạo trong các lĩnh vực kinh tế, xã hội, chúng
ta đã đạt được những thành tựu rất to lớn, rất mới mẻ, rất hiện đại. Cơ
sở hạ tầng đặc biệt là giao thông đường bộ, thuỷ lợi, viễn thông đã phát
triển đến tuyến huyện và đang chuyển dần về xã, bản, nhanh, chậm tuỳ
thuộc vào điều kiện cụ thể của từng vùng. Với tư cách là người làm chủ
đất nước, các dân tộc tham gia vào cơ quan quyền lực Nhà nước ngày càng
nhiều, cao hơn. Đội ngũ cán bộ khoa học - kỹ thuật được Đảng và Nhà nước
quan tâm đào tạo. Số cán bộ có trình độ đại học và trên đại học ngày
càng tăng trong các dân tộc. Vốn văn hoá, nghệ thuật cổ truyền của các
dân tộc được sưu tầm, bảo tồn, nghiên cứu, phát huy.
Thực hiện thắng lợi
chính sách dân tộc của Đảng, các dân tộc vốn gắn bó với nhau trong sự
nghiệp dựng nước và giữ nước, nay lại càng gắn bó đoàn kết với nhau hơn
trong công cuộc xây dựng đất nước. Những thành tựu đạt được trên là cơ
sở vững chắc góp phần củng cố khối đại đoàn kết dân tộc, nâng cao dân
trí, nâng cao đời sống, phát triển các dân tộc.