Áo dài là trang phục truyền thống của Việt Nam, mặc cùng với quần dài, che thân từ cổ đến hoặc quá đầu gối và dành cho cả nam lẫn nữ nhưng hiện nay thường được biết đến nhiều hơn với tư cách là trang phục nữ[1]. Áo dài thường được mặc vào các dịp lễ hội, trình diễn; hoặc tại những môi trường đòi hỏi sự trang trọng, lịch sự; hoặc là đồng phục nữ sinh tại
một số trường trung học cơ sở hay đại học; hoặc đại diện cho trang phục
quốc gia trong các quan hệ quốc tế. Dường như chưa có một văn bản nào
quy định áo dài chính thức là quốc phục của phụ nữ Việt Nam nhưng trong
thực tế nói đến phụ nữ Việt Nam thì không thể không nói đến tà áo dài.
Trong bất kỳ cuộc thi nhan sắc tầm vóc quốc tế nào trang phục dân tộc
đều là phần thi quan trọng không thể thiếu, và không phải ngẫu nhiên khi
các người đẹp Việt Nam đều chọn áo dài cho phần thi này[2].
Trải
qua bao thế kỉ chiếc áo dài đã có nhiều thay đổi so với tổ tiên nó
trước đây. Không ai biết rõ nguồn gốc nguyên thủy của chiếc áo dài vì
chưa có tài liệu ghi nhận. Nhưng kiểu sơ khai nhất của chiếc áo dài là
chiếc áo giao lãnh. Vũ Vương Nguyễn Phúc Khoát là người được xem là có
công sáng chế chiếc áo dài và định hình chiếc áo dài Việt Nam. Chính do
sự di cư của người Minh Hương mà chúa Nguyễn Phúc Khoát đã cho ra đời
chiếc áo dài giao lãnh để tạo nét riêng cho dân tộc Việt.
Trước đây, áo dài thường được mặc kết hợp cùng với nón quai thao, nón lá, hay là khăn đóng.
Sự
biến thiên của lịch sử tạo nên những nét đặc trưng của áo dài ở mỗi
thời kỳ. Nhưng tựu chung, áo dài lúc nào cũng đẹp, nữ tính và đại diện
cho truyền thống của phụ nữ Việt.

Không
ai biết thời điểm ra đời cụ thể của chiếc áo dài nhưng cách đây hàng
ngàn năm, trên trống đồng đã có hình ảnh này. Nó tồn tại cùng với mọi
sinh hoạt thường ngày của người Việt, từ giã gạo, làm ruộng, chăn nuôi
gia súc... Cho đến thời Hùng Vương, vào những năm 40 - 43 sau Công
nguyên, diễn ra cuộc khởi nghĩa do phụ nữ lãnh đạo duy nhất trong lịch
sử dân tộc Việt Nam, lập nên một Nhà nước vương triều độc lập, thống
nhất và tự chủ. Lịch sử đã ghi lại rằng, khi ấy, Hai Bà Trưng đã mặc áo
dài hai tà giáp vàng, che lọng vàng, cưỡi voi đánh trận.

Hai Bà Trưng
Để
tỏ lòng tôn kính hai bà, phụ nữ Việt tránh mặc áo hai tà mà mặc áo tứ
thân. Hồi ấy, họ đã khéo léo sử dụng màu sắc tự nhiên từ củ nâu, lá bàng
giã nhỏ hay bùn dẻo dưới ao để làm màu nhuộm cho những trang phục, tạo
ra nét “văn hóa mặc” đơn giản, tế nhị và kín đáo.


Áo tứ thân gắn với khăn mỏ quạ , tóc vấn đuôi gà và nón quai thao là hình ảnh tần tảo của bà , của mẹ ngày xưa
Từ
thế kỷ 17 đến đầu thế kỷ 20, xã hội Việt Nam với chế độ phong kiến,
phân chia giai cấp, tầng lớp khá rõ ràng. Những người phụ nữ nơi thành
thị đã biến tấu áo tứ thân thành áo ngũ thân hay năm tà để thể hiện sự
quyền quý, cao sang, phân biệt mình với những người thuộc tầng lớp nghèo
hơn.




Những tiểu thư , con nhà quan hay nhà giàu mặc áo ngũ thân.
Có thể thấy rõ sự phân biệt đẳng cấp trong bối cảnh này ,
chủ mặc áo ngũ thân , người hầu mặc áo tứ thân.
Giai
đoạn 1910 - 1950 và trước đó, người phụ nữ Việt vẫn còn chịu những khắt
khe của xã hội phong kiến nên trang phục không tôn dáng mà được may
rộng, phía trong họ còn mặc thêm một áo ngắn nữa. Chất liệu gấm và tơ
dành cho những người giàu có. Người nghèo thì may áo dài bằng vải.

Một gia đình nhà quan.
Nề
nếp, sự bảo thủ khiến họ phải cân nhắc khi lựa chọn màu sắc. Chỉ những
dịp đặc biệt hoặc thân phận là đào hát mới dám dùng màu sặc sỡ cho y
phục. Còn lại thường là màu nhẹ nhàng, nhạt như hồng nhạt, lòng tôm, mỡ
gà hoặc nâu, trắng, xám, để tránh bị cho là không đứng đắn.

Một phụ nữ giàu có trong trang phục áo dài.
Gia đình vua Bảo Đại trong trang phục áo dài
Ở
miền Bắc, phụ nữ thích may thêm một cái khuy phụ bên phải cổ áo, và cài
khuy cổ lệch ra đấy. Cổ áo hở ra để lộ những chuỗi hạt trang sức nhiều
vòng.


Thập niên 1930 - 1940, gấu áo dài thường được may trên mắt cá khoảng 20cm, được mặc với quần trắng hoặc đen

Từ thời đó, hình ảnh các thiếu nữ trường Đồng Khánh, Huế trong đồng phục áo dài tím đã đi vào thi ca, nhạc họa.


Cũng
trong giai đoạn này, xã hội Việt Nam dưới sự cai trị của Pháp nên bị
ảnh hưởng bởi văn hóa phương Tây, không chỉ trong tư duy, lối sống, văn
học... mà còn cả ở thời trang.Theo khuynh hướng này, năm 1939, nhà tạo
mẫu Cát Tường (Lemur) ở phố Hàng Da, Hà Nội, đã cải tiến áo dài với
những chi tiết mới mẻ và lạ lẫm như cổ áo khoét hình trái tim, có khi
áo được gắn thêm cổ bẻ và một cái nơ ở trước cổ, vai áo may bồng, tay
nối ở vai, khuy áo may dọc trên vai và sườn bên phải.

Cô Nguyễn thị Hậu - người đầu tiên mặc quần áo lối mới kiểu Lemur ( Phong Hóa)

Cô Hòa Vân trong bộ y phục tân thời mùa thu của Lemur 1938 ( Trịnh Bách) nhưng loại áo dài Lemur chỉ tồn tại đến năm 1943

Xã
hội ngày càng phát triển với con mắt cởi mở hơn, thẩm mỹ cũng khác hơn.
Thập niên 60 - 70, áo dài bắt đầu tôn lên những nét quyến rũ nhất của
người phụ nữ. Eo được may thắt lại, có người còn dùng dây quanh áo phía
trong ở vòng hai để eo đuợc nhỏ hơn, tà áo rộng, ngực áo nhọn, gấu áo
thẳng ngang, dài gần đến mắt cá chân, làm cho người mặc có dáng "thắt
đáy lưng ong"

Người phụ nữ Huế trong trang phục áo dài, nón là duyên dáng năm 1961
Áo
dài cũng trở thành một trang phục không thể thiếu khi đi ra ngoài của
phụ nữ Việt. Đặc biệt trong Sài Gòn, cuộc sống phồn hoa và ảnh hưởng từ
phong cách Mỹ đã khiến phụ nữ nơi đây có phong cách áo dài đa dạng, năng
động với đủ màu sắc, hoa văn, chất liệu. Áo dài có mặt trong mọi hoạt
động của phái yếu, từ đi chơi, đi chợ, tiếp khách ở nhà, cho đến cưới
xin, đi dự tiệc...

Áo dài với kiếng mát


Hoa văn đa dạng , nhiều màu sắc


Áo dài kết hợp với kiểu tóc model nhất thời bấy giờ.

Trong dịp quan trọng nhất đời, áo dài cũng là một trang phục không thể thiếu.
Cùng
trong thập niên 60, áo dài thêm một lần nữa thay đổi: đẹp, quyến rũ
hơn. Đó là kiểu áo dài cổ hở do vợ của Ngô Đình Nhu, bà Trần Lệ Xuân,
thiết kế (nên thường gọi là áo dài bà Nhu)

Mốt
này ban đầu bị nhiều người chống đối, nhưng chỉ một thời gian sau lại
nhận được nhiều lời khen ngợi vì nó tôn lên vẻ đẹp vừa hiện đại vừa
truyền thống của người phụ nữ, lại rất đơn giản, tinh tế.

Sau này cổ áo được cắt sâu xuống hơn nữa, hình vuông, hay hình tròn rộng khéo léo khoe cái cổ yêu kiều và trang sức đẹp

Bà Trần Lệ Xuân đã quảng bá áo dài Việt trong hầu hết các cuộc gặp gỡ với người nước ngoài, tiệc tùng, đi chơi...
Đến
gần cuối thập kỷ 60, áo dài mini trở thành thời thượng. Vạt áo may hẹp
và ngắn, có khi đến đầu gối, áo may rộng hơn, không chít eo nữa, nhưng
vẫn giữ đường lượn theo thân thể.


Phong
trào hippy phương Tây du nhập vào, khiến nhiều phụ nữ muốn "nổi loạn"
và thoải mái hơn, nhất là giới trẻ nên đã hình thành một dạng áo dài
khác, phần nhiều chỉ dài tới đầu gối, phía trên sát vào thân, dùng nhiều
loại hàng ngoại màu sắc rực rỡ.


Cô gái Huế mặc áo dài năm 1972
Nữ sinh trong tà áo trắng năm 1969

Từ
năm 2000 đến nay, sự giao lưu về văn hóa, sự phát triển vượt bậc về
kinh tế, và cái nhìn hiện đại tạo điều kiện cho các nhà thiết kế thỏa
sức sáng tạo, áo dài biến hóa muôn màu muôn kiểu và chính thức trở thành
quốc phục của nước Việt Nam. Chính vì thế, nó có mặt trong tất cả các
cuộc thi sắc đẹp lớn nhỏ cũng như là hình ảnh đại diện cho con người,
đặc biệt là phụ nữ Việt Nam trước bạn bè thế giới.


Đại diện cho sự quyến rũ, nữ tính và kín đáo đặc trưng của phụ nữ Việt Nam.
Sự
phát triển của xã hội vẫn tiếp tục, và chiếc áo dài không nằm ngoài sự
phát triển ấy. Nhưng thực tế đã chứng minh, dù có "vật đổi sao dời" thì
cái hồn, cái tinh túy, cái đẹp trong tà áo dài Việt sẽ mãi vẫn được lưu
giữ và phát huy, như nhà thơ Văn Tiến Lê đã từng ca ngợi: "Đơn sơ hai
mảnh tuyệt vời. Thân sau vạt trước nên lời nước non."