Theo sách “Quảng Bình nhân vật chí”, Nguyễn Hữu Hào là con trưởng của Nguyễn Hữu Dật. Quê tổ của ông ở hương Gia Miêu, huyện Tống Sơn, trấn Thanh Hoa. Ông là hậu duệ đời thứ chín của danh thần Nguyễn Trãi và là cháu nội của Tham tướng Chưởng cơ Nguyễn Triều Văn (dòng Nguyễn Hữu, tước Triều Văn hầu, phò triều Lê và Nguyễn sơ), là con trưởng Chiêu Vũ hầu Nguyễn Hữu Dật và là anh Lễ Thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh. Năm 1609, ông nội ông theo chúa Nguyễn Hoàng vào Nam và cuối cùng định cư ở Thừa Thiên.
Ông sinh năm 1648, tại Chương Tín (nay là thôn Phúc Tần, xã Vạn Ninh, huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình). Do là con của Chiêu Vũ hầu Nguyễn Hữu Dật nên mới 26 tuổi ông đã được lập tước Hào Lương hầu. Ông sinh ra và lớn lên giữa lúc Trịnh – Nguyễn phân tranh, chiến sự cứ tiếp diễn liên miên, tình hình rất căng thẳng. Từ nhỏ ông thường theo cụ thân sinh đi đánh giặc nên sớm biết việc binh, có can đảm và mưu lược. Năm ông 43 tuổi được giữ chức cai cơ, coi giữ Cựu Dinh (Ái Tử – Quảng Trị ngày nay). Giống hệt như thân phụ ông, ông Nguyễn Hữu Hào cũng rất mực hiền từ, đôn hậu. Là tướng cầm quân mà tính tình rất nhân từ, không muốn chém giết, không thích dùng bạo lực và luôn luôn đề xướng ân đức.
Có truyền thuyết kể rằng: Nguyễn Hữu Hào là người có dị tướng kỳ lạ. Ông có đôi mắt voi đa dạng. Đôi mắt ấy bình thường thì rất hiền nhưng khi nóng giận đột ngột, chỉ chớp mắt, lập tức đỏ au lên, hết sức dữ tợn. Ai nấy cũng khiếp sợ. Thế mà, chính những lúc đó, cử chỉ và giọng nói của ông lại rất ôn hòa, có thể nói là ôn hòa đến ngọt ngào. Do đó, mỗi việc làm của ông đều vừa cương quyết vừa nhân hậu, vừa công minh vừa bác ái. Đức độ này đã làm cho mọi người, từ tướng sĩ đến quần chúng đều khâm phục, thậm chí kẻ địch của ông nghe thấy cũng mến mộ và kính nể.
Năm 1689, chúa Nguyễn cho Nguyễn Hữu Hào làm thống suất cùng với tham mưu Hòa Tín tiến đánh Chân Lạp. Hữu Hào đóng quân ở Bích Đôi để bố trí doanh trại, quân lệnh nghiêm túc và chư tướng ai cũng phục. Thấy vậy, Chân Lạp quốc vương là Nặc Thu sai người đến cầu hòa và dâng lễ tỏ lòng thành. Khi đó, Hòa Tín muốn đánh nhưng Hữu Hào nói: Quốc vương kia đã đem mình về với ta, đánh thì tỏ ra chẳng oai võ gì.
Sau đó, Chân Lạp đem vàng bạc, tê giác, voi khỏe đến dâng, nhưng voi đều là loại thấp bé. Thấy thế, thị chiến là Diệu Đức nói: Những thứ Chân Lạp đem dâng không phải từ chân tình, chi bằng cứ đánh.
Nghe vậy, Hữu Hào đáp: Vỗ về người xa, quý ở lễ, không quý ở vật phẩm, ngày xưa Cố Giả cống cỏ tranh, có phải là vì vật phẩm đâu? Nói xong ông hạ lệnh nhận đồ cống của Chân Lạp rồi cho sứ giả về.
Cũng trong chuyện này, bà Như hiên Nguyễn Ngọc Hiền trong bài giới thiệu truyện “Song Tinh Bất Dạ” của Nguyễn Hữu Hào còn cho biết: Bởi không muốn lấy thế mạnh trấn áp kẻ yếu, nên trong lúc bàn luận, ông nói: Thừa nhân chi nguy mà làm điều phi tín nghĩa, rất không phải đạo. Mặc dầu họ đã phản bội quấy phá biên giới, song nay kẻ ấy biết lỗi chịu tội, mình cũng nên khoan hồng. Vả lại, đôi bên không phải giao chiến, đỡ chết chóc, quân mình không mất một giọt máu, không hao một mũi tên mà được họ quy phục, như thế chẳng hay lắm ư!
Thế nhưng, đời nào cũng có kẻ ganh tị người tài hơn mình. Ông vua chúa nào cũng thích xu nịnh, gièm pha! Do đó, Nguyễn Hữu Hào cũng chung một số phận như thân phụ ông. Người ta mật báo với chúa Nguyễn rằng, Nguyễn Hữu Hào nhút nhát, do dự, không dám vào hang cọp để bắt cọp, tức là đã “dưỡng hổ di hoạn”, trái với phận làm tướng. Chúa Nguyễn nghe vậy nổi giận, sai tước hết chức quyền, đuổi ông về làm thứ dân. Trở về nơi chôn nhau cắt rốn, ông bình thản làm người nông phu, vui vẻ, sớm cày ruộng, chiều đọc sách, tối đi lễ chùa, ngôi chùa trên núi Vạn Xuân sát cạnh làng Phúc Tín, nay nhân dân còn gọi là Động Chùa. Khi chúa Nguyễn Phúc Chu lên nối ngôi mới minh oan cho Nguyễn Hữu Hào và cho làm cai cơ, thống suất cơ Hữu Súng, rồi thăng chức Chưởng Cơ. Năm thứ 13 đời Nguyễn Phúc Chu, ông lại được lệnh đi làm trấn thủ Quảng Bình, đóng ở Võ Xá. Khi ông đến trấn đã thực hiện tốt chính sách vỗ yên trăm họ, nên được nhân dân trong vùng nể trọng.
Lời bàn:
Nguyễn Hữu Hào sống giữa lúc Trịnh – Nguyễn phân tranh, lại thêm nạn cướp bóc ở vùng biên giới phía Nam xảy ra liên miên, dân chúng sống trong cảnh nơm nớp nỗi lo sợ. Vì thế mà phần lớn cuộc đời làm quan của Nguyễn Hữu Hào luôn phải đối mặt với chiến tranh. Có lẽ cũng từ đó mà cảnh tàn khốc và đau thương trong chiến tranh đã hằn sâu trong tâm não ông và điều này đã giúp ông thức tỉnh với niềm khắc khoải trông đợi ngày hòa bình. Chỉ riêng những lời ông nói với cấp dưới trong việc tha cho sứ giả Chân Lạp cũng đã quá đủ để nói nên quan điểm của ông là lấy nhân nghĩa cảm hóa kẻ phản loạn, làm cho kẻ cứng đầu khiếp uy mà sợ phục.
Ngoài là một võ tướng, một quan cai trị, Nguyễn Hữu Hào còn là một nhà thơ có tài. Ông là tác giả tác phẩm Song Tinh Bất Dạ (Truyện Song Tinh). Truyện miêu tả một cuộc tình duyên tự do, vượt ra ngoài ràng buộc của lễ giáo phong kiến; vượt qua những thành kiến hẹp hòi và cường quyền, bạo lực để cuối cùng kết thúc bằng sự thắng lợi của tình yêu chung thủy. Truyện cũng tố cáo lối sống xa hoa và tính cách độc ác, hèn hạ của vua chúa phong kiến, đề cao chính nghĩa cùng khát vọng hạnh phúc lứa đôi… Vào thời ấy, một vị tướng có lòng nhân từ và có được ngòi bút sắc bén, bản lĩnh đến như vậy đâu có mấy người?
Sưu tầm