Theo sách “Hội Di sản văn hóa Việt Nam tỉnh Quảng Bình”, quê quán của Hoàng Hối Khanh là xã Bái Trại, huyện Yên Định, nay là thôn Bái Trại, xã Định Tăng, huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa. Ông đỗ khoa thi Thái học sinh (tương đương tiến sĩ sau này) năm Giáp Tý, niên hiệu Xương Phù 8 (1384) đời Trần Phế Đế. Năm 1385, ông được vua Trần Phế Đế giao trọng trách Tri huyện Nha Nghi (huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình ngày nay) trấn giữ phía Nam nước Đại Việt. Ông đã chọn Mũi Viết, vùng đất giữa 2 con sông Bình Giang và Ninh Giang đóng huyện sở.
Nơi đây địa thế sông núi hiền hòa, phía trước có thành Ninh Viễn (Nhà Ngo), hướng tây nam có ngọn núi Mã Yên như một bức bình phong bền vững. Từ Mũi Viết nhìn về hướng tây bắc là vùng đất màu mỡ hoang vu, có khả năng khai phá lập nghiệp lâu dài. Với cương vị là một vị tướng thống lĩnh cả một vùng phương Nam nên ông có đặc ân được chọn khoảng 500 mẫu ruộng đất. Năm 1387, ông ra Hoan Châu và Ái Châu chiêu mộ dân 12 dòng họ vào khai canh lập ấp; được tổ chức thành điền trang, sở hữu khoảng 500 mẫu. Và từ đấy lấy tên làng Kẻ Tiểu.
Tương truyền rằng, từ cơ sở Kẻ Tiểu ban đầu, ông đã tâu lên vua cho mở rộng toàn vùng, thành lập một số đơn vị hành chính khác. Những đơn vị chuyên sản xuất lương thực, thực phẩm đơn thuần đặt tên “kẻ” như Kẻ Tiểu (Thượng Phong), Kẻ Đợi (Đại Phong), Kẻ Tuy (Tuy Lộc), Kẻ Thá (An Xá), Kẻ Théc (Thạch Bàn), Kẻ Trìa (Tân Lệ), Kẻ Sóc (Mỹ Lộc), Kẻ Chền (Quảng Cư), Kẻ Tréo (Cổ Liễu), Kẻ Sòi (Xuân Hồi). Những đơn vị vừa làm nông nghiệp vừa làm thủ công nghiệp, sản xuất công cụ tư liệu sản xuất và hàng tiêu dùng gọi là “nhà” như Nhà Mòi (Mai Hạ) có nghề trồng bông dệt vải; Nhà Phan (Phan Xá), Nhà Vàng (Hoàng Giang) có thợ rèn đúc dao rựa, cày cuốc, gươm giáo; Nhà Ngo (Uốn Áo) có nghề sản xuất đồ gốm, gạch…; Nhà Cai (Mai Xá) có nghề trồng dâu nuôi tằm, dệt lụa. Một số đơn vị khác gọi tên làng bằng tên họ kèm theo chữ Xá như Châu Xá, Lê Xá, Văn Xá, Dương Xá, Ngô Xá, Lại Xá, Thượng Xá, Thạch Xá…
Ông tổ chức các làng dưới hình thức “động vi binh, tịnh vi dân” để vừa sản xuất vừa sẵn sàng chiến đấu. Như vậy Hoàng Hối Khanh được coi như vị Thành hoàng cả một vùng rộng lớn của huyện Lệ Thủy ngày nay. Sau đó, với tài năng của ông ở vùng đất mới, vua nhà Trần cử ông giữ chức An phủ sứ lộ Thăng Hoa (Quảng Nam – Quảng Ngãi bây giờ). Khi nhà Trần ngày càng suy yếu, giặc Minh âm mưu xâm lược nước ta, ông được điều ra làm An phủ sứ lộ Tam Đái (1394), sau đó được điều về kinh Tây Đô giữ chức Phát vận sứ ty (1394) để chuẩn bị chống giặc Minh.
Năm 1400, Hồ Quý Ly chiếm ngôi nhà Trần. Giặc Minh mượn cớ “phò Trần diệt Hồ” để xâm lược nước ta. Hoàng Hối Khanh ra làm quan cho nhà Hồ, được thăng chức Đồng tri Khu mật sứ (1401). Để đối phó với bọn xâm lược nhà Minh, ông cho lập xưởng đúc rèn vũ khí, chế tạo súng thần cơ là loại “Đại bác” lúc bấy giờ. Một lần Thái thượng hoàng Hồ Quý Ly gọi Hoàng Hối Khanh vào cung và hỏi: Làm sao có được 100 vạn quân để chống giặc Minh? Hoàng Hối Khanh đề xuất: Xin cho tuyển quân độ tuổi 15-60.
Năm 1404, ông làm Thái thú Đông Lộ Hồ Hán Thương sai ông chỉ huy, đốc suất xây dựng hệ thống phòng thủ thành Đa Bang kéo dài từ sông Bạch Hạc qua núi Tản Viên, lòng sông Bạch Hạc được đóng cọc phòng thủ đường thủy. Năm 1405, vâng lệnh Hồ Quý Ly, ông làm sứ giả đàm phán với quân Minh, kết quả không tốt, bị Quý Ly trách mắng. Tháng 9-1405, Hoàng Hối Khanh được cử giữ chức Hành khiển Tả thị lang kiêm lĩnh Thái thú lộ Thăng Hoa.
Năm 1407, giặc Minh xâm lược nước ta, do cuộc chiến đấu không cân sức ông bị bắt đưa đi trên một chiếc thuyền. Đến cửa Đan Huy, tức Cửa Hội – Nghệ An, ông nhảy xuống sông tuẫn tiết để giữ tròn khí tiết tôi trung. Tướng Trương Phụ sai lính chặt đầu ông đem bêu ở chợ Đông Đô.
Tương truyền, khi còn tại chức, Hoàng Hối Khanh là vị quan thanh liêm và hết mực lo cho dân chúng, nên sau khi ông mất, người đời vẫn luôn luôn tưởng nhớ. Đến đời vua Thiệu Trị thứ VI (1845), lăng mộ và miếu thờ của ông đã được xây dựng và từ đó về sau được nhân dân góp công, góp sức trùng tu nhiều lần.
Lời bàn:
Theo sử sách còn lưu truyền đến ngày nay, Hoàng Hối Khanh là danh tướng thời Trần – Hồ. Ông có nhiều cống hiến to lớn cho đất nước trong việc tổ chức chống quân xâm lược nhà Minh. Ông đã lấy cái chết để tỏ rõ khí tiết một sĩ phu yêu nước, trung nghĩa, bất khuất, nêu tấm gương sáng cho thế hệ mai sau. Và cái chết của Hoàng Hối Khanh thể hiện tinh thần không chịu khuất phục hoàn cảnh, không khuất phục trước kẻ thù. Mặc dù thời đó ông bị một số sử gia mang nặng tư tưởng trung quân cổ hủ chỉ trích nhưng hành động của ông dù sao vẫn đáng khen hơn hành động đưa tay chịu trói của cha con Hồ Quý Ly.
Chính vì thế mà với vùng đất Lệ Thủy (Quảng Bình), ông được dân làng tôn thờ làm vị tiền hiền khai khẩn. Sau khi đánh đuổi quân Minh ra khỏi bờ cõi, nhà Lê đã truy phong sắc thần cho ông: Tước Phong Dực bảo trung hưng, Linh phù đoan túc tôn thần. Nghĩa là: Cuộc đời của ngài đã đem hết tài năng, trí tuệ cống hiến cho đất nước, đáng để người đời cung kính tôn thờ. Thế mới hay rằng, nhân dân thời nào cũng là những sử gia công minh, chính trực và thủy chung nhất.
Sưu tầm