Trong chuyên mục này, chúng ta đã có dịp tìm hiểu về một người Việt nhưng lại thi đỗ Trạng nguyên và làm quan giữ đến chức Tể tướng của nhà Đường bên Trung Quốc thời cổ đại. Đó là Khương Công Phụ. Chuyện xưa kể lại rằng, vợ chồng ông Đĩnh khi hay tin con mình được sang Tràng An dự thi, vừa vui mừng lại vừa lo lắng. Vui vì nếu cậu con trai đỗ đạt thì bố mẹ cũng được thơm lây, mở mày mở mặt, bõ công nuôi nấng ăn học bấy lâu. Vả lại sang bên đó, nếu anh em gặp được nhau thì thật là phúc lớn. Song họ cũng bồn chồn lo lắng, vì đứa em đã đi biệt, nay thằng anh lại xa nốt, ở đất khách quê người, biết đâu lành hay dữ…
Vì thế mà vợ chồng ông Đĩnh cứ đắn đo, phân vân mãi. Nhưng rồi được bà con hương, phường khuyên giải, lại nghe thầy học của con phân tích cho hiểu, việc Công Phụ được sang Tràng An thi là một đại phúc của gia đình. Bấy giờ, vợ chồng ông Đĩnh mới nguôi. Trước khi lên đường, Công Phụ đã đến chào thầy. Và ông thầy đã tặng học trò giỏi của mình cuốn sách ghi chép những điều “thánh hiền” dạy mà ông đã suy ngẫm, rồi cầm tay trò ngậm ngùi dặn dò: Khi con trở về chắc không còn gặp lại ta. Ta cảm thấy trong người đã yếu lắm, ngày về cõi vĩnh hằng không còn xa nữa. Ta chỉ cầu mong con đỗ đạt và biết đem những điều “thánh hiền” dạy người quân tử để xử sự với đời thì ta thật thỏa lòng vì đã được con đền đáp rồi đó!
Khăn gói trên vai, chàng thanh niên họ Khương cùng các sĩ tử khác lên đường sang Tràng An. Đường sá xa xôi, hiểm trở, sông núi trập trùng, song với Khương Công Phụ, tính vốn ham cái mới, cái lạ, từng được theo thầy đi du ngoạn nhiều nơi thì lại thấy thích thú vì được hiểu biết thêm nên mặc dù cuộc hành trình kéo dài hằng tháng trời nhưng cậu vẫn cảm thấy khỏe khoắn, phấn chấn. Khi đến Tràng An – kinh đô Đại Đường thì sĩ tử khắp phương đang nô nức đổ về. Trong lòng chàng trai họ Khương cũng rộn lên những cảm xúc khác nhau.
Tràng An quả là tấp nập ngựa xe, phố phường khác xa quê nhà khiến cậu có phần bỡ ngỡ. Việc thi cử đã có luật lệ của triều đình quy định nên Công Phụ không phải suy nghĩ lao lung như việc tìm cách để gặp được đứa em ruột thịt. Các sĩ tử phương Bắc tuy có vẻ cao ngạo, xem thường học trò của những miền chư hầu, song nhờ được học với người thầy Tàu chính cống nên cậu nói năng giao thiệp chẳng khác gì người Tràng An, do vậy cũng dễ hòa nhập, thuận lợi cho việc tìm người em. Tuy nhiên, tung tích của đứa em vẫn bặt vô âm tín.
Mãi đến ngày, khi nhìn trên bảng yết tên những sĩ tử dự thi, Khương Công Phụ mới bất ngờ phát hiện một thí sinh trùng họ với mình, tên là Khương Công Phục. Song Công Phụ vẫn băn khoăn, nghi ngờ vì tên “cúng cơm” của em mình là Bật kia mà. Thế rồi cậu quyết tìm gặp Công Phục để hỏi chuyện cho rõ. Khi đó, Công Phục còn nhớ mang máng bố mẹ đẻ mình ở bên Châu Ái và có người anh vẫn hay đùa nghịch với mình nhưng thuở đó cậu còn nhỏ lắm, không thể biết chính xác được… Công Phụ mừng thầm vì thấy dấu hiệu về đứa em đã hé mở, cậu bèn nói một cách quả quyết: Tên chú chính là Bật. Ông thầy người Tàu xin chú về làm con nuôi mới đổi tên là Phục. Nếu quả là thằng Bật em tôi thì trên người chú có một vết chàm nơi chỗ kín?
Vậy là sau bao năm xa cách, hai anh em họ Khương đã nhận lại được nhau. Họ mừng mừng, tủi tủi, kể cho nhau nghe bao chuyện và cùng chia sẻ với nhau quyết tâm đoạt bằng được bảng vàng trong cuộc đua tranh tài trí quyết liệt sắp tới. Và khoa thi tiến sĩ năm Canh Tý, dưới triều Đường Đức Tông (784), có một sự kiện đặc biệt làm chấn động cả đất Tràng An – Trung Quốc: Đó là có hai anh em người Việt, Giao Châu cùng đỗ đại khoa. Riêng người anh Khương Công Phụ đã vượt lên hàng ngàn sĩ tử, để đoạt bậc khôi nguyên tiến sĩ cả nước Đại Đường. Sử sách Tàu khi thuật lại sự kiện này, đã thừa nhận: Thời Đường, văn sĩ An Nam kiệt xuất có Khương Công Phụ, người Ái Châu, quận Nhật Nam…
Lời bàn:
Sau khi thi đỗ Trạng nguyên, Khương Công Phụ được vua Đường phong chức Hiệu thư lang, thăng dần đến chức Gián nghị đại phú, rồi Tể tướng. Đây quả là trường hợp “có một không hai” trong lịch sử thời phong kiến ở Việt Nam, bởi một người Việt thường bị bọn thống trị phương Bắc gán cho là “man di”, lại giật giải Trạng nguyên, rồi lại đứng đầu bộ máy cai trị của cả đất nước Trung Hoa thiên tử! Vì vậy mà giới nho sĩ qua nhiều thế hệ đã ca ngợi Tể tướng Khương Công Phụ không những về mặt tài năng văn chương, mà còn cả về mặt phẩm chất, tư cách của một “kẻ sĩ” xuất chúng. Ông vốn tính cương trực, thẳng thắn, không sợ kẻ cường quyền. Đến vua Đường làm sai, ông cũng mạnh dạn góp ý can ngăn. Trong khi đó, các quan đại thần là người Hán trong triều đình nhà Đường không một ai dám làm điều này.
Và cứ theo sử sách còn lưu truyền đến ngày nay, không phải chỉ có một mình Khương Công Phụ được vua của các triều đại bên Trung Quốc phong làm Trạng nguyên, mà đã có một số vị Trạng nguyên nước ta do tài năng lỗi lạc, học vấn uyên bác nên khi sang sứ Trung Quốc cũng được vua Trung Quốc phong làm Trạng nguyên, được người đời mệnh danh là “Lưỡng quốc Trạng nguyên”, tức là Trạng nguyên hai nước, như Mạc Đĩnh Chi thế kỷ XIII, Nguyễn Đăng Đạo thế kỷ XVII… Song người Việt mà được phong giữ chức Tể tướng, đứng đầu triều đình ở Trung Quốc thời phong kiến thì quả thật chỉ một mình Khương Công Phụ. Đây là một minh chứng hùng hồn rằng, ngay từ xa xưa, tổ tiên chúng ta chẳng những không đứng ngang hàng mà còn đứng trên con cháu của “thiên triều” ở phương Bắc và xin hậu thế đừng ai quên điều này.
Sưu tầm