Vào thế kỷ VIII, nước ta bị đặt dưới ách đô hộ của nhà Đường. Tại quận Cửu Chân, châu Ái (Thanh Hóa) xuất hiện một con người xuất chúng: Khương Công Phụ. Theo sách “Đại Việt sử ký toàn thư”, Khương Công Phụ người làng Sơn Ổi, xã Cổ Hiển, nay là làng Tường Vân, xã Định Thành, huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa. Còn theo cuốn gia phả của họ Khương ở Thạch Thất (Hà Nội), ông nội Khương Công Phụ là Thứ sử Ái Châu (Thanh Hóa ngày nay) và có tên là Khương Thần Dực. Khương Thần Dực sinh ra Khương Văn Đĩnh làm đến Huyện thừa tiến sĩ. Khương Văn Đĩnh lại sinh ra 2 anh em Khương Công Phụ và Khương Công Phục.
Theo sách “Giai thoại văn học Việt Nam”, Khương Công Phụ từ bé đã biểu lộ sự thông minh, có trí nhớ tuyệt vời. Tất cả chữ Hán đề trên các ô thuốc bắc cậu đều thuộc hết, lại còn dùng que viết lại rất đúng chữ. Ông Đĩnh thấy con sáng dạ thì mừng lắm, bèn tìm một thầy người Tàu giỏi chữ cùng mở cửa hàng thuốc bắc gần nơi trị sở Quân Yên để gửi con theo học. Thật phúc đức cho Công Phụ đã gặp được người thầy thực tài, vốn trước đỗ đại khoa, vì chán cảnh triều đình bên chính quốc nên đã lánh sang Cửu Chân, tìm nơi ẩn dật.
Thấy cậu bé người Việt họ Khương học chữ rất nhanh, tính nết cần cù, ông thầy người Tàu ngày càng cảm mến. Những lần đi đó đây, ông đều cho cậu theo làm tiểu đồng. Công Phụ vừa được thưởng thức nhiều cảnh đẹp thiên nhiên, đất nước, lại còn được thầy dạy thêm thơ phú, xướng họa. Tuy tuổi tác khác nhau, không cùng nòi giống, song dần dần hai người trở thành đôi bạn và ông thầy Tàu cảm thấy không thể thiếu cậu học trò người Việt rất đỗi thông minh bên cạnh mình. Ông bèn dốc hết tâm huyết để dạy dỗ Khương Công Phụ.
Thường ngày, ông vẫn khích lệ Công Phụ cố gắng học thật giỏi rồi nhất định có dịp sẽ được sang tận Tràng An, kinh đô của nhà Đường, thi tài. Nghe thầy nói, Công Phụ nghĩ ngay đến đứa em ruột của mình đang bên đó. Chả là, thỉnh thoảng cậu vẫn nghe bố mẹ hỏi nhau: Không biết thằng Bật sống bên Tràng An như thế nào? Nghĩ vậy, Khương Công Phụ càng náo nức trong lòng, gia công đèn sách để mong sao thực hiện được cả hai ước mơ đang chớm nở. Quả nhiên, sự học của cậu tiến bộ rất nhanh, khiến thầy người Tàu phải ngạc nhiên, khen ngợi. Các sách Tứ thư, Ngũ kinh cậu thuộc như cháo; nghĩa lý trong Kinh thư, Kinh lễ… cậu thấu hiểu nhiều điều. Càng học, cậu càng nhận ra bể học thật mênh mông nên càng ham thích, say mê.
Chẳng mấy chốc đã tới kỳ khảo hạch ở quận, Thầy người Tàu cho Công Phụ biết, lệ vua ban quy định số sĩ tử An Nam được sang Tràng An dự khoa thi tiến sĩ chỉ có 8 người, nên khuyên cậu cố gắng bằng được để lọt vào số thí sinh ít ỏi đó. Đồng thời, ông cũng tìm cách giới thiệu người học trò giỏi của mình với mấy viên quan Đô hộ phủ để được xếp vào danh sách khảo hạch (vì rằng, một học trò người bản xứ nghèo hèn ở cái phường Cổ Hiển này thì làm sao chen vào cùng với bọn sĩ tử con nhà quyền quý trong cả châu quận được?). Và các viên quan Tàu cai trị, do nể lời vị đại khoa ẩn dật, đã chấp nhận để Khương Công Phụ dự thi.
Thế rồi, qua mấy kỳ khảo hạch, Khương Công Phụ đã làm cho tất cả quan trường người Tàu kinh ngạc. Bất kể hỏi về kinh sử hay thơ phú, bài làm của Công Phụ đều đạt xuất sắc, tỏ rõ một lực học phi thường, một tài năng hiếm thấy. Kết quả là Khương Công Phụ được xếp hàng đầu trong danh sách 8 sĩ tử của 8 quận đất Giao Châu về Tràng An dự khoa thi tiến sĩ, dưới triều vua Đường Đức Tông, niên hiệu Trinh Nguyên. Là người đỗ đầu nên Khương Công Phụ được vua Đường lúc ấy là Đường Đức Tông đặc cách cho giữ chức Hiệu thư lang. Và vì có bài chế sách hơn người nên về sau ông được vua nhà Đường phong làm Hữu thập di Hàn Lâm học sĩ, kiêm chức Kinh triệu hộ tào tham quân và sau này ông làm đến chức Tể tướng của triều Đường.
Lời bàn:
Theo các tài liệu lịch sử còn lưu truyền đến ngày nay, Trạng nguyên Khương Công Phụ được đích thân vua nhà Đường thăng các chức Hiệu thư lang, Gián nghị đại phu rồi Tể tướng. Đây quả là trường hợp có một không hai trong lịch sử Việt Nam, một người Việt thường bị bọn thống trị phương Bắc gán cho là “man di”, lại cầm đầu bộ máy cai trị của cả đất nước Trung Hoa thiên tử! Nhưng tiếc rằng, cuộc đời của vị gián quan người Việt có cặp mắt thần, có kiến thức đại uyên thâm và tấm lòng ngay thẳng đã đi vào một khúc ngoặt do chính chế độ phong kiến đương thời của nhà Đường đưa đến. Lúc ấy, người con gái yêu của vua nhà Đường là công chúa Đường An chẳng may chết yểu. Vì quá thương yêu con, nhà vua hạ lệnh xuất tiền của trong công khố để xây cho công chúa một cái tháp vô cùng lộng lẫy, nguy nga. Khương Công Phụ thấy việc làm sai trái đó bèn ra sức can ngăn.
Chỉ vì một lời can gián ngay thẳng mà Khương Công Phụ đã bị vua Đường nổi giận rồi giáng ông xuống làm một chức quan rất tầm thường. Mãi đến năm 805, sau khi Đường Thuận Tông lên ngôi và thấy rõ lẽ phải trong lời can gián của Khương Công Phụ, liền xuống chiếu cử ông làm Thứ sử Cát Châu. Nhưng vị lão thần tuổi già sức yếu đi chưa tới nơi thì lâm bệnh chết. Đã 12 thế kỷ trôi qua và cũng với ngần ấy thời gian đã chứng minh rằng, tấm gương sáng của Khương Công Phụ còn mãi với sử xanh, như mây trắng vẫn bay mãi trên trời xuân, còn tháp công chúa Đường An thì đến nay chẳng ai hay biết. Thế mới hay rằng, lời thật dễ mất lòng và đôi khi còn là tai họa. Song, chính lời trung thực ấy sẽ lưu danh muôn thuở.
Sưu tầm