Theo sách “Đại Nam nhất thống chí”, Vũ Huy Tấn còn có tên gọi khác là Vũ Huy Liễn, sinh năm Kỷ Tỵ (1749) tại làng Mộ Trạch, huyện Đường An, nay thuộc tỉnh Hải Dương. Là một nho sinh thông minh trác tuyệt, năm 20 tuổi (1768), ông thi đỗ Giải nguyên cùng khoa với Phan Huy Ích dưới đời vua Lê Cảnh Hưng trị vì, nên tiếng tăm lừng lẫy một vùng.
Năm Kỷ Dậu (1789), sau đại thắng quân Thanh, việc nội trị đã yên, vua Quang Trung tính đến việc đối ngoại nhằm hòa hoãn với triều đình nhà Thanh, tạm dẹp nạn binh đao để muôn dân an hưởng thái bình. Nhà vua chỉ dụ tìm người tài đức trong nước để lo việc ngoại giao. Có người tiến cử Vũ Huy Tấn. Khi có lệnh vời, ông tìm cách lánh đi nơi khác vì lòng còn vương vấn nhà Lê. Vốn trọng người tài, vua Quang Trung lại tiếp tục cho vời lần nữa. Lần này, được thân phụ là tiến sĩ Vũ Huy Đỉnh khuyên bảo nên ông vào kinh bệ kiến, được bổ chức Hàn lâm đại chế, tước Bá. Vừa nhậm chức thì ông liền được vua Quang Trung cử đi sứ.
Trong chuyến đi sứ trình sang Bắc quốc, ông tỏ ra là người có tài ứng phó, có nhiều thơ văn thù ứng sắc xảo, đề vịnh tuyệt bút được vua Càn Long nhà Thanh khen ngợi, giới sĩ phu Mãn Thanh nể phục. Nói về tài ứng phó của ông, giai thoại dưới đây là một minh chứng: Một hôm, ngồi trong công quán ở Bắc Kinh, thấy cuốn sổ kê khai đồ cống của nước ta và nhìn vào mục ghi chép trong sổ thấy nhà Thanh gọi mình là Di quan (tức quan xứ mọi). Ông lấy làm bất bình liền hạ bút viết 4 câu thơ vào cuốn sổ. Bài thơ được dịch như sau: Chữ “di là hợp cung với “qua”; Nước ta văn hiến tựa Trung Hoa. Vua Tàu đã gọi An – Nam quốc; Dùng chữ “di này hóa chẳng ngoa”! Khi xem bài thơ, các sĩ phu nhà Thanh hiểu thâm ý của sứ giả Việt Nam nhưng không làm gì được vì lời lẽ rất mềm mỏng, từ tốn.
Với thành tích đó, khi về nước ông được vua Quang Trung thăng Công bộ thượng thư. Nhà vua thực sự phục tài ông nên không lâu sau đó, lại cử ông đi sứ lần nữa. Chuyến đi sứ lần này hết sức quan trọng vì vua Thanh yêu cầu đích thân vua Quang Trung sang tiếp kiến. Sau đó, vua Quang Trung cử một đoàn sứ giả thật hùng hậu gồm toàn nhân vật tài ba như Ngô Văn Sở, Phan Huy Ích, Đặng Văn Chân, Nguyễn Tiến Lộc… do Võ Huy Tấn đứng đầu, phò “giả vương” vua Quang Trung giả sang Bắc quốc triều cống. “Giả vương” là Phạm Công Trị – một vị triều thần có vóc dáng và diện mạo hao hao giống vua Quang Trung, được nhà vua chọn thay mình để cùng đi với sứ bộ.
Lần này nhà Thanh vời cho được vua Quang Trung sang, trước là để tỏ uy phong, sau là để dự đại khánh mừng thọ bát tuần vua Càn Long. Vua Thanh cho đón tiếp sứ bộ rất trọng thể, cung phụng đặc cách. Sau đó, lại mời đi thăm Đằng vương các, xây dựng từ thời nhà Đường nằm bên bờ sông phong cảnh thật hữu tình, là nơi du ngoạn nổi tiếng ở Giang Tây, từng được đại thi hào Vương Bột ca ngợi bằng một bài thơ tuyệt tác. Vị quan sở tại có yêu cầu sứ bộ ta vịnh thơ. Vũ Huy Tấn cầm bút viết xong ngay. Lời lẽ có phần khiêm tốn nhưng tứ thơ thì thật cao sâu.
Làm xong nhiệm vụ, sứ bộ từ giã triều đình nhà Thanh lên đường về nước. Giả vương Phạm Công Trị được vua Càn Long ban cho áo mũ, cân đai và một vạn lạng bạc. Lại còn có bức chân dung do một danh họa người Tàu vẽ và bài thơ vua Thanh thủ bút đề tặng. Vũ Huy Tấn cũng được tặng nhiều vật kỷ niệm như bút long chương, mũ tam phẩm. Vì có công lớn, Vũ Huy Tấn được liệt vào hàng công thần, cùng với Ngô Thì Nhậm và Phan Huy Ích chuyên lo việc bang giao. Vì thế, ông rất được vua Quang Trung trọng đãi. Năm Ất Mão (1795), Vũ Huy Tấn được đặc cách phong Thượng trụ quốc thị trung. Năm Canh Thân (1800), ông mất sau một cơn bệnh hiểm nghèo, hưởng dương 51 tuổi.
Lời bàn:
Sau khi Quang Trung đại phá quân Thanh, vua nhà Thanh là Càn Long đã trù tính xâm lược báo thù. Và với đường lối ngoại giao đặt danh dự quốc gia lên hàng đầu, nhà Tây Sơn đã kiên quyết đấu tranh với nhà Thanh để không chỉ công nhận Tây Sơn về mặt ngoại giao mà còn đòi hủy bỏ lệ “cống người vàng” do “thiên triều” áp đặt mỗi khi thay đổi triều đại. Và trước thực lực cũng như sức mạnh ngoại giao chính nghĩa của Tây Sơn, vị vua kiêu dũng của nhà Thanh là Càn Long, không những phải quyết định đình chỉ việc động binh trả thù mà còn buộc phải ra lệnh bãi bỏ lệ cống người vàng, với lời phê rằng, “Việc triều trước bắt cống người vàng là đáng khinh bỉ”.
Những thắng lợi đó còn bắt nguồn từ đường lối ngoại giao đúng đắn, hợp tình, hợp lý của vương triều Tây Sơn với tư tưởng ngoại giao đặc sắc và đã để lại cho hậu thế những bài học lịch sử quý giá. Những trang sử ngoại giao hào hùng của thời Tây Sơn không chỉ làm chúng ta hôm nay tự hào, ngưỡng mộ mà còn làm chúng ta càng yêu thêm đất nước, thêm tin tưởng ở tương lai và tiền đồ tốt đẹp của dân tộc. Chính vì vậy, việc kế thừa và vận dụng sáng tạo những tư tưởng ngoại giao đặc sắc và bài học lịch sử quý báu của vương triều Tây Sơn thời đại Quang Trung vẫn rất cần thiết và bổ ích cho hậu thế hôm nay cũng như mai sau.
Sưu tầm