Mạc Đĩnh Chi (1286-1350) tự là Tiết Phu, người huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương, nổi tiếng học vấn uyên thâm, có tài ứng đối mẫn tiệp nhưng người thấp bé, hình dung xấu xí. Ông đỗ Trạng nguyên khoa Giáp Thìn (1304) thời Trần Anh Tông, khi chưa đầy 20 tuổi. Thời xưa người được chấm đỗ thi Đình có khi còn phải vào yết kiến để vua xét dung mạo rồi mới quyết định cho đỗ hẳn hay không.
Mạc Đĩnh Chi vào ra mắt nhưng vua Trần Anh Tông thấy tướng mạo ông xấu xí có ý không muốn cho đỗ Trạng. Ông làm bài phú Ngọc tỉnh liên (Hoa sen trong giếng ngọc), ca ngợi nét cao quý của bông sen, tự ví mình với hoa quân tử. Vua đọc xong thuận cho ông đỗ Trạng nguyên.
Trải qua ba đời vua: Anh Tông (1293-1313), Minh Tông (1314-1328), Hiến Tông (1329-1340), ông làm quan đến chức Đại liêu ban Tả bộc xạ. Hai lần được cử đi sứ sang Trung Quốc, ông thường tỏ ra có tài hùng biện, dùng văn chương áp đảo triều thần nhà Nguyên, những câu ứng đối tài tình của ông được chép nhiều trong sách sử Trung Hoa. Đặc biệt, ông từng được Nguyên đế khen tặng là “Lưỡng quốc Trạng nguyên”.
Truyền thuyết về bài thơ tán quạt và chức “Lưỡng quốc Trạng nguyên” được kể lại như sau: Trong một lần đi sứ nhà Nguyên và gặp lúc có người ngoại quốc dâng quạt, nhân lúc đó vua nhà Nguyên muốn thử tài nên đã sai ông cùng sứ thần nước Cao Ly (Triều Tiên) mỗi người phải làm ngay một bài thơ tán quạt. Sứ thần Cao Ly làm xong trước và trong bài thơ ấy có những câu:
Uẩn long trùng trùng, Y Doãn, Chu Công,
Vũ tuyết thê thê, Bá Di, Thúc Tề.
Nghĩa là:
Khí nóng bừng bừng, Y Doãn, Chu Công,
Mưa tuyết đầm đìa, Bá Di, Thúc Tề.
Ý nói mùa hạ nóng nực thì cái quạt đắc dụng như hai ông Y Doãn, Chu Công; mùa đông giá rét thì cái quạt vô dụng chết lả như hai ông Bá Di, Thúc Tề.
Trong lúc chưa biết viết gì, Mạc Đĩnh Chi liếc sang đầu quản bút của sứ thần Cao Ly và ông đoán được ý tứ của sứ thần Cao Ly rồi theo đó suy diễn thêm ra thành bài thơ tán quạt sau đây:
Lưu kim thước thạch, thiên địa vi lô,
Nhĩ ư tư thì hề, Y, Chu cự nho.
Bắc phong kỳ lương, vũ tuyết tái đồ,
Nhĩ ư tư thì hề, Di, Tề ngạ phu.
Y: Dụng chi tắc hành, xả chi tắc tàng,
Duy ngã dữ nhĩ hữu thị phù.
Nghĩa là: Nấu vàng nung đá, Trời đất như lò thì ngươi lúc ấy khác gì Y, Chu nổi tiếng bậc cự nho? Gió lạnh buốt xương, mưa tuyết đầy đường thì ngươi lúc ấy cũng như Di, Tề nhịn đói trên núi Thú Dương. Ôi! Dùng thì ra giúp đời, bỏ thì tạm ẩn để chờ thời. Chỉ ta với ngươi giữ được như thế.
Sứ thần Cao Ly viết xong trước, ông viết xong cũng trình lên. Nguyên đế khen bài của ông hay hơn, cầm bút khuyên vào câu có chữ “Y” và phê “Lưỡng quốc Trạng nguyên”.
Lời bàn:
Khi nói về giai thoại này, có người cho rằng nếu nội dung của giai thoại trên quả đúng là sự thực và vua Nguyên khi ấy là người uyên bác, mẫn tiệp, công minh thì có lẽ chức “Lưỡng quốc Trạng nguyên” phải được chia đôi cho sứ thần Cao Ly mới đúng. Vì nội dung bài văn không do Mạc Đĩnh Chi nghĩ ra mà là “mượn” ý, “nhờ” tứ của sứ thần Cao Ly và ông chỉ thêm câu kết trích trong Luận ngữ để tỏ ý chí của mình. Điều đáng tiếc là sau khi đọc cả hai bài mà vua Nguyên vẫn không nhận thấy sự trùng ý của hai sứ thần và không truy nguyên kể cũng lạ, qua đó cũng đủ biết vua Nguyên khi đó là người như thế nào.
Tuy nhiên, điều đáng nói trong giai thoại này là sự ứng phó cực kỳ nhanh nhạy, cũng cực kỳ thông minh và tài giỏi đáng phải kính phục của Mạc Đĩnh Chi. Một người chỉ cần nhìn đầu ngọn bút mà biết người kia đang viết gì, nghĩ gì thì từ thượng cổ tới nay thiên hạ hỏi có được mấy ai? Chưa hết, không những nhìn bút hiểu người, mà Mạc Đĩnh Chi còn ứng đối một cách uyên bác để cả triều đình nhà Nguyên phải nể phục. Và chỉ riêng điều này đã cho thấy Mạc Đĩnh Chi xứng đáng là “Lưỡng quốc Trạng nguyên”.
Sưu tầm