Theo sách “Đại Việt sử ký toàn thư”, Trần Thị Dung là con gái của Trần Lý, em gái của Trần Thừa, Trần Tự Khánh và là anh em họ với Trần Thủ Độ. Khi Thái tử Sảm chạy loạn Quách Bốc về ở nhờ Hải Ấp của ông Trần Lý, thấy Trần Thị Dung xinh đẹp nên xin lấy làm vợ vào năm 1209. Trần Thị Dung cũng là cô ruột của vua Trần Thái Tông (1226-1258). Bà vốn quê ở Lưu Gia, Hải Ấp (nay là đất Lưu Xá, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình).
Năm Kỷ Tỵ (1209), chính sự nhà Lý đổ nát, kinh thành Thăng Long hỗn loạn, thái tử của nhà Lý là Lý Hạo Sảm bấy giờ mới 15 tuổi, chạy đến vùng Lưu Gia, nhân đó, kết hôn với Trần Thị Dung. Nhờ gia đình Trần Lý bảo bọc và hết lòng giúp đỡ nên Thái tử Lý Hạo Sảm đã nhanh chóng tập hợp được một lực lượng khá hùng mạnh. Năm Tân Mùi (1211), vua cha là Lý Cao Tông qua đời, Thái tử Lý Hạo Sảm được triều thần đón về để tôn lên ngôi vua, đó là vua Lý Huệ Tông (1211-1224). Năm ấy, bà Trần Thị Dung được sắc phong làm nguyên phi (đứng đầu hàng thứ hai của vợ vua). Nhưng vào đầu năm 1213, do vua Lý Huệ Tông có chút nghi ngờ anh trai của bà là Trần Tự Khánh nên bà bị giáng xuống hàng ngự nữ (thấp nhất trong các thê thiếp của vua). Năm Bính Tý (1216), bà được sắc phong làm Thuận Trinh phu nhân và đến cuối năm ấy lại được sắc phong làm hoàng hậu.
Hoàng hậu Trần Thị Dung sinh hạ hai công chúa. Trưởng công chúa là Thuận Thiên, sinh tháng 6 năm Bính Tý (1216), sau gả cho Trần Liễu (thân sinh của Trần Hưng Đạo) và công chúa thứ hai là Chiêu Thánh, sinh tháng 9 năm Mậu Dần (1218), sau vì Lý Huệ Tông không có con trai lại mắc bệnh điên nên công chúa Chiêu Thánh được truyền ngôi vào năm Giáp Thân (1224), đó là Lý Chiêu Hoàng (1224-1225), hoàng đế cuối cùng của triều Lý. Cuối năm Ất Dậu (1225), Lý Chiêu Hoàng kết hôn với Trần Cảnh (em ruột của Trần Liễu) và ngay sau đó thì nhường ngôi cho Trần Cảnh. Nhà Trần được lập kể từ đó.
Từ ngày có mặt trong hoàng cung, Trần Thị Dung luôn tìm cách tạo điều kiện cho họ Trần phát triển thế lực. Khi triều Trần được thiết lập, bà một lòng giúp họ Trần. Đầu năm Bính Tuất (1226), thượng hoàng Lý Huệ Tông bị phế, bắt ra ở chùa Chân Giáo, cho đổi gọi là Huệ Quảng đại sư. Khi Lý Huệ Tông và nhiều tôn thất nhà Lý bị giết hại, bà bị giáng làm Thiên Cực công chúa và đem gả cho Trần Thủ Độ.
Họ Trần nhờ hôn nhân mà lấy được ngôi thì ắt hẳn dòng họ khác cũng có thể làm được việc tương tự như vậy. Nghĩ thế, Trần Thủ Độ và Trần Thị Dung ngày đêm lo lắng, để rồi sau cùng đã định lệ cho con cháu họ Trần hôn phối với nhau, không lấy người khác họ. Bởi lẽ ấy mà vợ của Trần Hưng Đạo cũng chính là bà cô ruột của ông (công chúa Thiên Thành). Về sau, Trần Thủ Độ và bà Trần Thị Dung còn buộc Trần Liễu phải nhường vợ là Thuận Thiên công chúa cho Trần Cảnh (lúc này đã là vua), còn Chiêu Thánh công chúa thì đem gả cho Lê Tần (tức Lê Phụ Trần). Bởi chuyện này mà Trần Liễu xung đột với Trần Cảnh, bà Trần Thị Dung phải dàn xếp mãi mới xong.
Năm 1258, quân Mông Cổ sang xâm lược nước ta, bà Trần Thị Dung có công rất lớn trong cuộc đọ sức lịch sử này. Bà chỉ huy việc chủ động di chuyển toàn bộ kho tàng và hoàng tộc rút khỏi kinh đô Thăng Long, sau đó lại lo liệu thu nhặt sắt thép, động viên các hiệp thợ ngày đêm rèn đúc vũ khí để cung cấp cho quân Trần. Bà còn lo liệu cả lương thực, thực phẩm để cung cấp cho quân đội đánh giặc. Sau chiến thắng ở Đông Bộ vào đầu tháng 1-1258, quân dân Đại Việt đuổi sạch giặc Nguyên – Mông ra khỏi bờ cõi, giữ vững nền độc lập của Tổ quốc… Tháng 1 năm Kỷ Mùi (1259) bà mất vì bệnh tại Thăng Long. Bởi nguyên trước đó bà là hoàng hậu, lại cũng bởi bà là mẹ của Lý Chiêu Hoàng và của Thuận Thiên hoàng hậu, nên triều Trần đã truy tặng bà tước hiệu Linh Từ Quốc mẫu (lời mẹ hiền từ và hiển linh của đất nước).
Lời bàn:
Nước Đại Việt vào cuối triều Lý, đầu triều Trần, có hai người phụ nữ với vai trò rất đặc biệt đối với lịch sử dân tộc, đó là Lý Chiêu Hoàng và Trần Thị Dung. Lý Chiêu Hoàng là vị vua nữ đầu tiên và cũng là cuối cùng của các triều đại phong kiến Việt Nam. Còn Trần Thị Dung xuất thân là cô gái làng chài và trong chỗ không ngờ của duyên phận, bỗng dưng bà trở thành hoàng hậu của Lý Huệ Tông. Từ đó, cuộc đời Trần Thị Dung gắn chặt với sự chuyển đổi quyền lực từ nhà Lý sang nhà Trần. Những việc làm của Trần Thị Dung trước sau đều vì sự tồn tại và phát triển cơ nghiệp của họ Trần. Và cũng vì cơ nghiệp của họ Trần, bà trở thành người lạnh lùng với họ Lý, hy sinh hết quyền lợi và tình cảm của người họ Lý, dù đó là những người thân thuộc. Chính vì thế mà sử thần Ngô Sĩ Liên đã có lời nhận xét trong chính sử rằng: Thế mới biết trời sinh ra Linh Từ là để mở nghiệp nhà Trần vậy.
Sưu tầm