Võ tướng Nguyễn Tri Phương, tên thật là Nguyễn Văn Chương sinh tại Phủ Thừa Thiên, theo sách “Đại Nam nhất thống chí”, ngay từ nhỏ ông đã có chí lớn. Ông không ưa việc khoa cử mà chỉ đọc những cuốn sách có ứng dụng để giúp đời. Ông xuất thân trong gia đình làm ruộng và nghề thợ mộc. Nhà nghèo lại không xuất thân từ khoa bảng nhưng nhờ ý chí tự lập ông đã làm nên cơ nghiệp lớn. Thời kỳ đầu triều vua Minh Mạng, nhà vua có chiếu kén những người hiền tài giúp nước. Nguyễn Tri Phương đã bước vào con đường hoạn lộ bằng một chức nhỏ ở địa phương. Làm nha lại không bao lâu, ở địa phương ông xảy ra một vụ án rất bí mật. Quan huyện giao cho ông tra xét và ông đã khám phá ra được vụ án ấy. Đồng thời, ông đã thảo một tờ bẩm rất khúc chiết, rõ ràng trình lên quan trên. Vụ án ông khám phá được báo lên tỉnh rồi vào cung vua.
Tình cờ, vua Minh Mạng đọc được tờ bẩm và nhận ra tài năng của ông. Vua cho dẫn ông vào triều để từ đó cuộc đời Nguyễn Tri Phương thăng tiến rất nhanh. Năm Quý Mùi – 1823, vua Minh Mạng đề bạt ông hàm Điển bộ (Bí thư ở Nội điện), năm sau thăng Tu soạn, rồi Thừa chỉ ở Nội các, hai năm sau thăng Thị độc, Thị giảng học sĩ, năm 1831 thăng Hồng Lô tự khanh. Năm 1832, ông được sung vào phái bộ sang Trung Quốc về việc thương mại. Năm 1835, ông nhận lệnh vua Minh Mạng vào Gia Định cùng Trương Minh Giảng bình định các vùng mới khai hoang. Việc thành công ông được thăng hàm Thị lang. Năm 1837, ông bị triều thần gièm pha nên bị giáng xuống làm thơ lại ở bộ Lại. Cuối năm, ông được khôi phục hàm Chủ sự, sung chức Lang trung. Năm sau, ông thăng Thị lang bộ Lễ, năm 1839 thăng hàm Tham tri, làm việc ở Nội các.
Năm 1840, ông được bổ làm Tuần phủ Nam Ngãi, trông coi bố phòng cửa biển Đà Nẵng. Công việc hoàn thành tốt đẹp, ông được triệu về kinh thăng Tham tri bộ Công, được vua Thiệu Trị cử làm Tổng đốc Long Tường (Vĩnh Long và Định Tường). Tại đây, ông dẹp tan được các toán giặc cướp nước ngoài vào quấy phá. Tháng 5 (âm lịch) năm 1844, ông được cải bổ Tổng đốc An Hà (An Giang, Hà Tiên). Năm 1845, ông cùng với Doãn Uẩn đánh bại quân Xiêm La của tướng Bodin, bình định Cao Miên, ổn định hoàn toàn vùng biên giới Tây Nam thuộc miền Tây Nam bộ. Sau đó, ông được thăng Khâm sai quân thứ đại thần Trấn Tây hàm Tòng Hiệp biện đại học sĩ, rồi được thưởng danh hiệu “An Tây trí dũng tướng”.
Tháng 5-1847, ông được triệu về kinh, thăng hàm Chánh Hiệp biện đại học sĩ, lãnh Thượng thư bộ Công đại thần Cơ mật viện, tước Tráng Liệt tử và được ban một ngọc bài có khắc 4 chữ “Quân kỳ thạc phụ”, được chép công trạng vào bia đá ở Võ miếu (Huế). Sau khi vua Thiệu Trị mất, ông được đình thần tôn làm Phụ chính Đại thần. Năm Mậu Thân (1848), vua Tự Đức phong tước cho ông là Tráng Liệt bá. Cùng năm đó, cha ông qua đời. Ông xin về cư tang, nhưng vì đang làm Phụ chính nên chỉ được nghỉ một thời gian ngắn phải ra làm việc tại triều đình. Năm Canh Tuất – 1850, vua Tự Đức chuẩn phê cải tên ông là Nguyễn Tri Phương. Từ đó Nguyễn Tri Phương trở thành tên chính của ông. Sau đó, ông được sung chức Khâm sai Tổng thống Quân vụ Đại thần các tỉnh Gia Định, Biên Hòa, Vĩnh Long, Định Tường, An Giang, Hà Tiên. Năm 1853, ông được thăng Đông các Đại học sĩ, rồi lãnh chức Kinh lược sứ Nam Kỳ. Trong thời gian này, ông có công lập được nhiều đồn điền, khai khẩn đất hoang, dân cư ở địa phương được an cư lập nghiệp.
Cuộc đời ông gắn liền với chiến chinh trận mạc trải qua khắp ba miền của đất nước. Khi biên thùy phía Nam bị ngoại bang xâm lấn, chính ông đã làm chủ tướng đánh giặc và buộc giặc đầu hàng. Trong nhiều năm cầm quân ở vùng sông nước đồng bằng sông Cửu Long, ông luôn chủ trương thu phục lòng người hơn là dùng vũ lực. Nguyễn Tri Phương nói: Công thành không bằng công tâm, toàn sự tức là toàn thắng. Công cuộc “công tâm” của ông đã giúp các tỉnh vùng biên phía Nam không còn bóng giặc đánh phá nữa.
Lời bàn:
Từ nội dung của giai thoại trên đây cho thấy, cuộc đời cũng như số phận của danh tướng Nguyễn Tri Phương gắn liền với số phận của đất nước ở cuối thế kỷ XIX. Khi phương Tây chế tạo ra súng đạn thì nhiều quốc gia ở châu Á phải chịu khuất phục vì gươm giáo, cung tên không thể địch lại. Và nước Việt Nam cũng nằm trong số các quốc gia bị phương Tây đánh chiếm bằng sức mạnh khoa học – kỹ thuật như thế. Nguyễn Tri Phương đã nhận thấy điều này nên trình với vua đề nghị canh tân đất nước. Thế nhưng, nhiều quan lại trong triều đình đã chống lại ông nhằm hưởng nhàn cho tấm thân. Kết cục, Hà thành đã thất thủ khi Nguyễn Tri Phương được giao trọng trách bảo vệ. Ông đã nhịn ăn cho đến chết với câu nói bất hủ: Làm tướng phải chết và chết ở trận tiền không phải là cái chết nhục nhã.
Chỉ với lời trăn trối ấy cũng đã là quá đủ để hậu thế hiểu rõ và sâu hơn bản lĩnh cũng như tấm lòng sắt son của võ tướng Nguyễn Tri Phương đối với đất nước và trăm họ. Ông đã dành cả cuộc đời cho sự nghiệp giữ yên bờ cõi và chống ngoại xâm qua ba đời vua Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức. Nhưng hơn thế nữa, thông qua cuộc đời Nguyễn Tri Phương, người đương thời cũng như ngày nay đã thấy được một giai đoạn đầy biến động của đất nước ta trước sự xâm lược của ngoại bang phương Tây. Đồng thời mọi người cũng cảm nhận rõ lòng yêu nước nồng nàn và tinh thần bất khuất trước kẻ thù của danh tướng Nguyễn Tri Phương.
Sưu tầm