Năm 1902, vua Thành Thái tuần du Bắc Hà kết hợp với việc làm lễ trấn yểm cầu sông Cái Long Biên Hà Nội mà người Pháp đặt tên là Pôn – Đuyme, lấy tên viên toàn quyền Đông Dương thời kỳ này. Dự lễ trấn yểm có nhà vua nên tất cả các quan lại đại thần, các vị đại khoa ở Bắc Hà phải có mặt.
Cụ Nguyễn Khuyến (Tam Nguyên Yên Đỗ) mặc dù đã rời quan trường từ mùa thi 1892 nhưng vì là quan đại thần, lại đỗ đại khoa (3 lần đỗ đầu) với hàm Tổng đốc Tam Tuyên (Sơn Tây, Hưng Hóa, Tuyên Quang) và tuy cụ đã cáo quan trên đường đi nhậm chức vì lý do “đau mắt” nhưng cũng được triệu về Hà Nội để bái yết nhà vua và dự lễ. Tất cả các quan khi bái yết nhà vua đều phải tuân theo nghi lễ của triều đình, nghĩa là phải quỳ lạy (phủ phục) và hô “vạn tuế”. Nhưng đến lượt cụ Tam Nguyên thì thật trớ trêu cho cụ, bởi bà chánh phi, vợ của Thành Thái, là con gái của tiến sĩ Nguyễn Trọng Hợp, làm tới chức Văn minh điện Đại học sĩ, trước đây đã đính ước với con trai cả của cụ là Nguyễn Hoan, đỗ Phó bảng nhưng không thành.
Nay, nếu buộc cụ Tam Nguyên phải thực hiện nghi lễ với vua (điều đó là bình thường theo lễ vua tôi) mà không lễ vợ vua là không ổn. Nhưng lễ vợ vua thì hóa ra cụ lại phải lễ con dâu trượt của mình. Như thế thì sẽ là trò cười cho thiên hạ, hơn thế không thể tránh khỏi những bình nghị chẳng hay ho gì, sẽ ảnh hưởng đến uy tín của một nhà nho đại khoa như cụ.
Đem theo sĩ khí của nho sĩ Bắc Hà, cụ bái yết nhà vua và chỉ vái 2 cái, không quỳ lạy như các vị khác và thưa: Muôn tâu Hoàng thượng, thần giờ chỉ như một con trâu già, xin đức khâm thượng khai ân!
Nhà vua mỉm cười. Song để giữ phép vua, phép nước và cũng là để giữ uy tín của triều đình nên truyền thánh chỉ: Vậy khanh hãy làm bài thơ “Vịnh trâu già”, nếu hay trẫm miễn tội. Và ngay sau đó, cụ ung dung ứng khẩu đọc bài thơ theo thể đường luật thất ngôn bát cú “Vịnh trâu già” như sau:
Một nắm xương khô một nắm da,
Bao nhiêu các ách đã từng qua.
Đuôi khom biếng vẫy Điền Đan hỏa,
Tai nặng buồn nghe Ninh Tử ca.
Sớm thả vườn Đào chơi đủng đỉnh,
Tối về thôn Hạnh thở nghi nga.
Có người toan giết tô chuồng mới,
Ơn đức vua Tề lại được tha.
Bài thơ “xuất khẩu” trên quả là tài tình hiếm có, rất đúng niêm luật, sát đầu đề dù đó là một đề tài khó. Hay hơn nữa ở chỗ cụ đã ví mình, một vị quan lại không còn mẫn cán với triều đình như xưa, nay chỉ như một con trâu già, trâu phế canh không còn tác dụng gì với nhà nông nữa. Bởi nay chỉ còn có da bọc xương do cả đời kéo cày mắc ách, làm lụng vất vả, ăn giả làm thật như trong “Lục súc tranh công” đã tả đó là 2 câu mở đầu. Đến câu 3 và 4, cụ dùng điển tích Trung Quốc để mở rộng ý rằng con trâu còn có công với nước. Đó là chuyện Điền Đan thời Chiến quốc, một tướng nước Tề khi bị nước Yên sang đánh chỉ còn có 1 thành. Điền Đan dụng mưu dùng mồi rơm có tẩm dầu buộc vào đuôi trâu, mài sừng sắc nhọn hoặc gắn kiếm sắc vào sừng, đốt lửa cho trâu sợ xông vào quân Yên. Quân Yên sợ bỏ chạy, nước Tề được phục quốc và nếu không có trận hỏa công đó chắc chắn nước Tề bị tiêu diệt. Hoặc Ninh Tử chính là Ninh Thích khi chưa làm quan, có tài nhưng không ai biết đến. Ông làm nghề chăn trâu, thường gõ sừng trâu để hát, nói lên chí lớn của mình, để sau đó Quản Trọng dùng làm tướng nước Tề.
Hai câu 5 và 6 của bài thơ có từ Vườn Đào, thôn Hạnh xuất xứ từ chuyện Vũ Vương đánh Trụ đã dùng trâu để vận chuyển rất đắc lực. Sau khi diệt Trụ, ông đã ra lệnh 3 năm cấm giết trâu, buổi sớm cho chăn ở Vườn Đào, tối về cho nghỉ ở thôn Hạnh Hoa, một làng đẹp của Trung Quốc ngày xưa. Câu kết “Ơn đức vua Tề” nhắc lại sự tích Tề Tuyên Vương thấy lính dắt trâu đi qua trước thềm, con trâu run rẩy sợ hãi, vua hỏi thì được biết dắt trâu đi giết lấy máu làm sơn tô chuồng mới. Sau đó, nhà vua bèn ra lệnh tha trâu không giết. Nguyễn Khuyến ví mình như là một con trâu già mà người ta chỉ nhăm nhăm muốn giết để ăn thịt, liệu nhà vua có tha mình như vua Tề không?
Biết được ưu tư của cụ và nhà vua đánh giá cao bài thơ rất hay ở câu “Ơn đức vua Tề”, vì vậy không những tha tội mà còn thưởng hậu.
Lời bàn:
Nguyễn Khuyến ra làm quan giữa lúc nước mất nhà tan, cơ đồ nhà Nguyễn như sụp đổ hoàn toàn nên giấc mơ trị quốc bình thiên hạ của cụ không thực hiện được. Và cũng chính vì bất lực bởi không làm được gì để thay đổi thời cuộc nên cụ xin cáo quan về ở ẩn. Từ đó dẫn đến tâm trạng bất mãn, bế tắc của nhà thơ và có lẽ cũng từ đó mà mỗi sáng tác của Nguyễn Khuyến đều thể hiện sự trải nghiệm, trăn trở về cuộc đời, về nhân tình thế thái. Nhưng trải nghiệm ấy đã đúc kết nên một sự nghiệp thơ văn khá đồ sộ cho hậu thế hôm nay.
Thế mới hay rằng, ở đời có những nỗi buồn khiến người ta trở nên bần tiện, thấp kém, lại có những nỗi buồn khiến người ta trở nên thanh cao, đáng kính, đáng trọng. Đó là nỗi buồn của kẻ sĩ trước vận nước lâm nguy. Cũng chính vì cái thời cuộc ấy, với ông vua bù nhìn như vậy và với tính cách đại trượng phu của một kẻ sĩ lừng danh, cụ Nguyễn Khuyến mới hành lễ như vậy và có lẽ thời đó cũng chỉ có cụ mới làm được việc như vậy. Thật đáng kính thay.
Sưu tầm