Theo sách “Đại Việt sử ký toàn thư”, Trần Hưng Đạo có tên thật là Trần Quốc Tuấn, con trai thứ 3 của Trần Liễu và gọi vua Trần Thái Tông bằng chú ruột. Ông sinh ra ở kinh đô Thăng Long, quê quán ở thôn Tức Mặc, nay thuộc phường Lộc Vượng, thành phố Nam Định. Năm 1237, khi lên 5 tuổi ông làm con nuôi cô ruột là Thụy Bà công chúa, vì cha ông là Trần Liễu chống lại Trần Thủ Độ.
Sau khi thôn tính xong Trung Quốc, đế quốc Mông Cổ tập trung lực lượng đánh Đại Việt. Trong ba mươi năm từ 1257 đến 1288, đế quốc Mông Cổ đã ba lần ào ạt cho quân tràn xuống xâm lược nước Việt, mỗi lần lực lượng mỗi tăng hơn nhiều so với lần trước, chuẩn bị công phu hơn và quyết tâm cũng cao độ hơn. Vào tháng 9 năm Đinh Tỵ-1257, Trần Hưng Đạo giữ quyền “tiết chế” để chuẩn bị chống lại cuộc xâm lược của quân Nguyên – Mông lần thứ nhất. Sau khi đánh lui được quân Nguyên – Mông lần đầu vào năm 1258, tháng 10-1283, để chuẩn bị kháng chiến lần hai vào năm 1285, Trần Hưng Đạo được vua Trần Nhân Tông phong làm Quốc công Tiết chế thống lĩnh các lực lượng quân sự. Tháng 8 năm sau -1284, ông cho duyệt quân ở bến Đông Bộ Đầu (Hà Nội ngày nay) và đọc bài “Hịch tướng sĩ” nổi tiếng, rồi chia quân đóng giữ những nơi hiểm yếu.
Tượng đài Quốc công tiết chế Hưng đạo đại vương ở thành phố Nam Định
Đầu năm 1285, quân Nguyên – Mông lại ào ạt tiến công vào phía Bắc và vùng Thanh Hóa – Nghệ An. Để bảo toàn lực lượng và thực hiện kế “thanh dã” (vườn không nhà trống), Trần Hưng Đạo ra lệnh rút quân. Quân xâm lược vào Thăng Long rồi tiến xuống Thiên Trường (vùng Nam Định) đuổi theo vua Trần. Vua Trần Thánh Tông lo ngại nên vờ hỏi ông xem có nên hàng không. Ông khảng khái trả lời: “Bệ hạ chém đầu tôi rồi hãy hàng”. Tháng 5 năm ấy -1285, ông vạch kế hoạch tổng phản công. Chỉ sau một tháng chiến đấu quyết liệt với các trận Hàm Tử, Chương Dương, Tây Kết, Vạn Kiếp,…quân dân nhà Trần đã đánh tan đội quân Nguyên – Mông.
Cuối năm 1287, nhà Nguyên sang xâm lược lần thứ ba. Trần Nhân Tông hỏi: Năm nay đánh giặc thế nào? Trần Hưng Đạo đáp: Năm nay thế giặc nhàn. Khi đoàn thuyền lương đối phương bị tiêu diệt ở Vân Đồn, chủ tướng là Hoàng tử Thoát Hoan phải rút lui, ông bố trí lực lượng mai phục ở cửa sông Bạch Đằng trực tiếp tổ chức chiến trường tiêu diệt toàn bộ binh thuyền của Ô Mã Nhi vào tháng 4 năm Mậu Tý – 1288. Thoát Hoan nghe tin đội quân thủy đã vỡ tan liền dẫn tàn quân tháo chạy về nước, dọc đường bị quân Việt đón đánh khiến quân sĩ mười phần, tổn hại mất 5, 8 phần. Thoát Hoan phải chui vào ống đồng để trốn chạy về nước.
Trong ba lần đánh thắng quân xâm lược Nguyên – Mông, công lao của Trần Hưng Đạo vô cùng to lớn. “Đại Việt sử ký toàn thư” viết về ông như sau: Tiếng vang đến phương Bắc, khiến chúng thường gọi ông là An Nam Hưng Đạo Vương mà không dám gọi thẳng tên”. Sử gia Nguyễn Huệ Chi viết rằng ông là “thiên tài quân sự có tầm chiến lược và là một anh hùng dân tộc bậc nhất của nhà Trần. Không chỉ là một danh tướng lẫy lừng, ông còn là người đặt nền móng cho những tư tưởng nghệ thuật quân sự vĩ đại. Là một Tiết chế đầy tài năng, khi dụng binh biết đợi thời, biết thừa thế tiến thoái, đặc biệt là có một lòng tin sắt đá vào sức mạnh và ý chí của nhân dân, của tướng sĩ, nên Trần Hưng Đạo đã đề ra một đường lối kháng chiến ưu việt, tiêu biểu là các cuộc rút lui chiến lược khỏi kinh thành Thăng Long để bảo toàn lực lượng. Kế hoạch vườn không nhà trống và những hoạt động phối hợp nhịp nhàng giữa “hương binh” và quân triều đình, những trận tập kích và phục kích có ý nghĩa quyết định đối với cả chiến dịch như ở Chương Dương, Hàm Tử, Tây Kết, Vân Đồn và nhất là ở Bạch Đằng… đã làm cho tên tuổi ông bất tử.
Lời bàn:
Trần Quốc Tuấn là một danh tướng kiệt xuất, vị thống soái có tài năng quân sự tuyệt vời. Nhìn lại 3 cuộc kháng chiến chống Nguyên – Mông thắng lợi, ông xác định nguyên nhân chính là do vua tôi nhà Trần có được sự đồng lòng, anh em hòa mục, nước nhà chung sức là nhân tố làm cho quân địch bị bắt, bị tự cầm. Ông là vị thống soái nắm vững yêu cầu chiến lược, đó là tư tưởng lấy nhỏ đánh lớn, cả nước đánh giặc và chính ông là người sáng tạo ra phương pháp đánh giặc riêng của người Việt: lấy đoản binh chống trường trận. Cái tài giỏi của Trần Quốc Tuấn là biết chuyển tình thế hiểm nghèo thành thuận lợi. Xoay chuyển thế trận tạo nên thời cơ. Khi thời cơ đến lập tức phản công, chọn đúng hướng, đúng mục tiêu đánh những trận quyết định khiến kẻ thù không kịp trở tay, trong chốc lát đã bị thất bại. Và tài thao lược của Trần Quốc Tuấn nổi bật là tính chủ động và linh hoạt, biết người biết mình, chủ động điều địch, chủ động đánh địch.
Sau Lý Thường Kiệt khoảng 210 năm, dân tộc ta lại xuất hiện một danh tướng tài ba với những chiến công hiển hách đã đi vào lịch sử thế giới, đó là Trần Hưng Đạo. Những công lao hiển hách của Trần Hưng Đạo với đất nước được nhiều danh sĩ đương thời và hậu thế ngày nay muôn phần kính nể, tôn vinh. Những bài học về nghệ thuật đánh trận, bài học về nhân tâm của ông là những tài sản vô giá của nền tư tưởng quân sự Việt Nam. Và tư tưởng ấy đã được các thế hệ ngày nay tiếp nối, phát huy có hiệu quả trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Sưu tầm