Nhân
mắt hay còn gọi là thể thủy tinh, nó là một thấu kính trong suốt, nằm ở
ngay sau đồng tử. Nhân mắt bình thường trong suốt và có khả năng điều
tiết và hội tụ các tia sáng lên võng mạc nơi điểm vàng, giúp chúng ta
nhìn rõ mọi vật xung quanh. Nhưng khi có biểu hiện khác thường như nhân
mắt bị đục, khiến cho những tia sáng không thể đi qua được, tùy theo mức
độ đục mà trẻ có thể nhìn mờ hoặc không nhìn thấy gì. Khác với người
lớn, đục nhân mắt ở trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ (dưới 8 tuổi) gây cản trở lớn
cho sự phát triển chức năng thị giác, thường dẫn đến chứng nhược thị.
Nguyên nhân đục thủy tinh thể
Đục
nhân mắt tức là thể thủy tinh bị đục, còn gọi là cườm mắt (Catarac). Có
nhiều nguyên nhân phát sinh ra chứng đục nhân mắt ở trẻ. Chẳng hạn như
đục nhân mắt bẩm sinh hoặc ở trẻ nhỏ có thể xuất hiện ngay sau khi sinh,
hoặc tiến triển trong những năm đầu của cuộc đời. Chủ yếu có 2 nguyên
nhân chính, một là do di truyền, gặp 10 - 25%. Hai là do nhiễm khuẩn
trong thời kỳ người mẹ thai nghén, đặc biệt là các bệnh do virút
(rubeon, herpes, cúm, quai bị...). Nó có thể xảy ra một cách tự nhiên và
không kèm với một bệnh nào khác hoặc trong các hội chứng. Đục nhân mắt
này có thể xảy ra ở 1 mắt hoặc cả 2 mắt.
Đục
nhân mắt bệnh lý do các bệnh tại mắt như: viêm màng bồ đào, glôcôm,
bong võng mạc, u nội nhãn... hoặc do các bệnh toàn thân như: đái tháo
đường, bệnh galactoza huyết, têtani, bệnh da...
Đục
nhân mắt do chấn thương khi vết thương xuyên, tình trạng này thường gây
nên đục nhân mắt ở 1 mắt của trẻ em. Một số dạng đục này có đặc biệt là
tiến triển từ từ sau hàng tuần hoặc nhiều tháng, dạng khác xuất hiện
ngay trong lúc bị chấn thương.
Xử trí đục nhân mắt trẻ nhỏ
Cách
xử trí được tiến hành cụ thể là: cho dù đục nhân mắt do nguyên nhân nào
đi nữa thì mọi trường hợp đục nhân mắt đều ngăn cản sự phát triển của
thị lực nên cần phải được lấy nhân mắt đục đi bằng phẫu thuật để phục
hồi thị lực. Ở trẻ nhỏ, đây là một phẫu thuật khẩn cấp để phòng nhược
thị.
Một
đường rạch nhỏ ở trong mắt, qua đó nhân đục được lấy ra. Bệnh nhân cần
được nằm viện khoảng từ 1 - 2 ngày. Cả phẫu thuật và phục hồi chức năng
tiến bộ rất nhiều trong những năm gần đây. Cho dù mắt được mổ lành rất
nhanh, nhưng trẻ cần được che mắt lại trong vòng 1 – 2 tuần để giữ cho
trẻ không bị những va chạm hoặc những chấn thương vào mắt.
Mặc
dù phẫu thuật đạt kết quả cao nhưng vẫn có thể xảy ra biến chứng.
Khoảng 95% phẫu thuật nhân mắt ở trẻ em không có vấn đề gì, tuy nhiên có
thể gặp xuất huyết, nhiễm khuẩn, bong võng mạc và glô-côm. Biến chứng
nặng phải bỏ nhãn cầu rất ít gặp.
Khả
năng tiến triển của mắt sau phẫu thuật sẽ có những diễn biến như sau
khi lấy nhân mắt đục đi cần thiết phải điều chỉnh quang học cho con mắt
này. Đeo kính gọng là dùng kính hội tụ có công suất khoảng +9 đến +12
điốp. Đây là phương pháp đơn giản nhất nhưng hiệu quả không cao do kính
phóng đại hình ảnh lớn tới 30%.
Kính
tiếp xúc thông thường và có kết quả ở trẻ nhỏ để thay thế cho nhân mắt
tự nhiên. Các bà mẹ cần phải biết cách chăm sóc kính tiếp xúc, cách lắp
vào, lấy ra và phải biết phát hiện những dấu hiệu không bình thường để
báo kịp thời cho bác sĩ.
Đặt
thể nhân mắt nhân tạo (thủy tinh nhân tạo) là xu hướng mới nhất, nhân
mắt nằm ở vị trí tự nhiên của nhân mắt tạo điều kiện tốt nhất để nâng
cao thị lực và phục hồi chức năng thị giác.
Chú
ý: trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ có nguy cơ phát triển nhược thị ngay cả khi
đã được phẫu thuật đạt kết quả cao và điều chỉnh quang học tốt. Do vậy
sau mổ, trẻ cần phải tập luyện bằng cách bịt mắt lành nhằm phục hồi thị
lực lâu dài.