Tình
trạng thừa cân và béo phì đã và đang trở thành một nguy cơ của sức
khỏe. Tại các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam, tình trạng này
đang tăng lên nhanh chóng trong những năm gần đây nhất là ở trẻ em bên
cạnh một số lượng không nhỏ các bệnh nhân bị suy dinh dưỡng.
Thừa cân béo phì là nguyên nhân làm gia tăng bệnh lý mạn tính nguy hiểm
như tim mạch, tăng huyết áp, đái tháo đường... trong đó hệ xương khớp là
một trong những căn bệnh chịu tác hại nghiêm trọng của tình trạng này.
Các chuyên gia sức khoẻ dự đoán rằng tỷ lệ thừa cân ở trẻ sẽ tăng cao
tại hầu hết các nơi trên thế giới vào cuối thập kỷ này. Ở châu Âu, con
số sẽ lên tới 26 triệu. Trẻ em thừa cân sẽ đối mặt với nguy cơ bị tiểu
đường type 2, huyết áp cao, hàm lượng cholesterol tăng và ung thư khi
trưởng thành.

Nguyên nhân gây béo phì:
Nhiều
người cho rằng có vô số lý do gây thừa cân, song thực ra chỉ có ba
nguyên nhân chính là gene, thực phẩm và mức độ luyện tập
+ Gene: Các nhà khoa
học đã nhận dạng nhiều loại gene làm tăng hoặc giảm cảm giác thèm ăn,
khiến một số người chóng đói hơn người khác, hoặc cần phải ăn nhiều hơn
thì mới đủ no. Đó chính là nguyên nhân gây ra hiện tượng ăn quá nhiều và
tăng cân.
+ Thói quen ăn uống: Những người hay lựa chọn thực phẩm nhiều chất béo
hoặc giàu năng lượng (dù chỉ là khẩu phần nhỏ) sẽ dễ bị tăng cân hơn so
với những người có đĩa thức ăn đầy nhưng rất ít năng lượng như bánh mỳ,
khoai tây và rau xanh. Ăn quá nhiều đồ béo còn làm tăng nguy cơ mắc các
bệnh tim mạch. Tiêu thụ đồ ăn nhanh, kể cả khi không thực sự thấy đói,
cũng khiến bạn nhanh chóng rơi vào tình trạng tăng cân khó kiểm soát.
+ Vận động cơ thể: Những
người có cuộc sống năng động thường ít bị tăng cân hơn người ngồi lì
trước máy tính, TV, hoặc lái ôtô cả ngày. Năng tập thể dục có thể giúp
kiểm soát cân nặng và cải thiện vóc dáng, đồng thời làm giảm nguy cơ
phát triển các bệnh tim mạch và tiểu đường
*
Sự thay đổi về chế độ ăn uống, ít luyện tập và dành quá nhiều thời gian
trước tivi và màn hình máy tính là nguyên nhân chính gây nên tình trạng
béo phì.
Chẩn đoán thừa cân và béo phì
- Béo phì là trạng thái dư thừa cân nặng
do cơ thể tích tụ quá nhiều mỡ, khi béo quá mức thì gọi là béo phì. Có
nhiều phương pháp khác nhau để đánh giá thừa cân và béo phì như: Đo lớp
mỡ dưới da, đo tỷ trọng cơ thể, dùng các chất phóng xạ hoặc loại cân đặc
biệt để đo tỷ lệ phần trăm mỡ trong cơ thể... Trong các phương pháp
này, tính BMI là được nhiều tác giả công nhận.
BMI = Cân nặng/(Chiều cao)² (Trong đó: cân nặng tính bằng kg, chiều cao tính bằng m).
- Bảng phân loại thừa cân, béo phì ở
người lớn theo BMI của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) và của IDI&WPRO
cho các nước châu Á (2002) như sau:
Phân loại
|
WHO BMI (kg/m²)
|
IDI&WPRO BMI (kg/m²)
|
Cân nặng thấp (gầy)
|
< 18,5
|
|
Bình thường
|
18,5 - 24,9
|
18,5 - 22,9
|
Thừa cân
|
25
|
23
|
Tiền béo phì
|
25 - 29,9
|
23 - 24,9
|
Béo phì độ I
|
30 - 34,9
|
25 - 29,9
|
Béo phì độ II
|
35 - 39,9
|
30
|
Béo phì độ III
|
40
|
|
- Như vậy, theo Bảng phân loại dành cho
cộng đồng các nước châu Á thì người Việt Nam chúng ta chỉ nên có BMI từ
18,5-22,9. Thông thường đối với các bạn gái trẻ, chỉ số BMI lý tưởng
nhất là từ 18,5-20. Còn đối với phụ nữ trung niên và người lớn tuổi thì
chỉ số BMI lý tưởng là 20-22.
- Ngoài ra bạn có thể tính nhẩm nhanh cân nặng của mình bằng cách:
+ Mức cân nặng lý tưởng: Số lẻ chiều cao (tính bằng cm) nhân 9 chia cho 10.
+ Mức cân nặng tối đa: Bằng số lẻ chiều cao.
+ Mức cân nặng tối thiểu: Số lẻ của chiều cao (tính bằng cm) nhân 8 chia cho 10.
- Ví dụ: bạn cao 160cm (1,6m) thì cân
nặng lý tưởng là: 60 x 9 : 10 = 54kg. Cân nặng tối đa cho phép là: 60kg.
Cân nặng tối thiểu là 60 x 8 : 10 = 48kg. Như vậy nếu cân nặng của bạn
vượt quá số lẻ chiều cao, tức là bạn đã bị thừa cân, vượt càng nhiều thì
béo phì càng nặng, tuy nhiên cũng không nên để cân nặng ít hơn mức tối
thiểu.
Thừa cân và béo phì gây hậu quả gì?
Béo phì là yếu tố nguy cơ của nhiều bệnh
tật của nhiều cơ quan, bộ phận trong cơ thể như: Hệ tim mạch (Tăng
huyết áp, xơ vữa mạch máu, nhồi máu cơ tim, tai biến mạch não, hẹp tắc
động mạch chi…), Hệ hô hấp (Giảm thông khí, ngừng thở khi ngủ là một
biến chứng rất nguy hiểm), Hệ nội tiết, chuyển hóa ( Tình trạng kém dung
nạp glucose, kháng insulin, nặng hơn là bệnh tiểu đường, rối loạn
chuyển hóa mỡ máu, tăng acid uric gây bệnh gút…), Tác động về tâm sinh
lý (Tự ti, trầm cảm, khó hòa nhập cộng đồng…).
+ Ảnh hưởng của tình trạng thừa cân và béo phì đối với hệ vận động của trẻ
- Ảnh hưởng của béo phì bộc lộ ngay từ
khi còn trẻ như đi lại chậm chạp hơn, thường bị bạn bè cùng lứa chế
giễu, làm cho trẻ béo phì ngại tiếp xúc hơn và hay chơi một mình. Mặt
khác với trọng lượng quá cao so với sức chịu đựng còn non yếu của hệ cơ
xương khớp nên trẻ thường kêu đau mỏi xương khớp nhất là khớp gối, vùng
thắt lưng. Một số trường hợp khớp bị biến dạng như chân hình chữ X hay
chữ O, ảnh hưởng đến thẩm mỹ và gây khó khăn trong hoạt động.
- Một bệnh lý khác cũng gặp nhiều ở trẻ
em thừa cân và béo phì đó là hiện tượng trượt điểm cốt hóa ở đầu trên
xương đùi gây tình trạng đau khớp và biến dạng khớp kiểu khớp háng xoay
vào trong. Về lâu dài, đây là yếu tố nguy cơ gây thoái hóa khớp háng sớm
và nặng.
- Thoái hóa khớp, đau thắt lưng: Khi
trọng lượng cơ thể tăng thì sức nặng đè lên các khớp càng lớn, nhất là
vùng lưng, khớp háng, khớp gối, cổ chân làm cho các khớp này sớm bị tổn
thương và lão hóa nhanh. Hậu quả là gây đau đớn và khó khăn trong vận
động, sinh hoạt hàng ngày của người bệnh.
Phòng, điều trị béo phì và các bệnh phối hợp như thế nào?
Mục
đích của điều trị thừa cân và béo phì là giảm trọng lượng ở giai đoạn
đầu rồi duy trì trọng lượng cơ thể ở mức độ hợp lý ở giai đoạn sau bằng
các biện pháp sau:
+ Chế độ ăn giảm calo: Lượng calo cung
cấp giảm từ 20 - 25 % so với tuổi và giới, loại trừ các loại đường hấp
thu nhanh và mỡ bão hòa hoặc tương đương với 1.600 – 1.800 kcal/ngày.
Mục đích là giảm cân từ từ, không quá nhanh, khoảng 2-3 kg/tháng.
+ Tăng cường hoạt động thể lực: Luyện
tập thể dục, thể thao vừa sức sẽ giúp cơ bắp khỏe mạnh, thuận lợi cho
lưu thông mạch máu, giúp cho dinh dưỡng khớp và sụn khớp tốt hơn. Cơ bắp
khỏe mạnh sẽ giúp giảm lực đè ép lên các khớp xương trong khi vận động.
Nên tập luyện tối thiểu 30 phút/ngày. Những hoạt động thể thao như bơi
lội, đi bộ, thể dục nhịp điệu... và các môn thể thao tập thể như bóng
đá, bóng chuyền... nên được khuyến khích...
** MỘT SỐ CÁCH ĐỐI PHÓ VỚI TRẺ BỊ BÉO PHÌ
- Theo các chuyên gia tâm lý, những đứa
trẻ béo phì rất khó hòa đồng với xã hội và luôn cảm thấy khổ sở khi bị
coi là "người nổi bật"... Có nhiều trẻ ý thức được việc giảm cân và
siêng năng tập luyện, nhưng cũng không ít em sau một thời gian ngắn đã
buông xuôi. Trong hoàn cảnh này, vai trò của cha mẹ rất quan trọng.
+ Đừng chế nhạo trẻ:
Điều tồi tệ nhất mà chúng ta thường hay làm với các trẻ béo phì là lôi
các em ra làm trò đùa, nhất là ở nơi công cộng. Đừng bao giờ cười giễu
và gọi trẻ với những cái tên thằng bệu, con heo... Cha mẹ nên hiểu rằng,
những đứa trẻ "quá khổ" rất nhạy cảm và dễ tủi thân. Nhiều cha mẹ cứ
nghĩ việc chế nhạo sẽ khiến các em thấy lo lắng và chăm chỉ giảm cân.
Thực tế là không ít trẻ do bị chế nhạo quá nhiều đã trở nên ì ạch trong
sự mặc cảm.
+ Gương mẫu trong tập luyện:
Hãy dành thời gian sắp xếp lịch để cùng tập luyện cho trẻ, có thể một
tiếng mỗi sáng. Không nên "hét" trẻ dậy bằng một chiếc đồng hồ báo thức
và rồi để một mình trẻ "âm thầm" tập luyện trong khi cả nhà vẫn ngủ say.
Chỉ có tác phong luyện tập của cả nhà mới kéo trẻ thoát khỏi cơn buồn
ngủ, truyền cảm hứng và giúp trẻ không cảm thấy lẻ loi. Đồng thời, cha
mẹ phải luôn luôn nói cho trẻ thấy vai trò quan trọng của việc tập luyện
để có được một thân hình đẹp.
- Cho trẻ chơi thể thao và các trò chơi
ngoài trời: Hãy tìm cách đưa các bé "phục phịch" ra khỏi nhà và tham gia
nhiều loại hình thể thao. Nếu không có nhiều thời gian đưa con đi chơi,
bạn nên cho trẻ vào một câu lạc bộ thể dục thể thao. Đừng bao giờ để
trẻ bỏ dở bài tập giữa chừng. Hãy nói với trẻ biết số tiền mà bạn đã
đóng cho câu lạc bộ để trẻ có ý thức và trách nhiệm hơn trong tập luyện.
Ăn kiêng: Đừng bắt con
bạn ăn kiêng mà không có tư vấn của bác sĩ. Tuy nhiên, bạn có thể giảm
tối thiếu đồ ngọt trong khẩu phần ăn của trẻ, thỉnh thoảng nên nới lỏng
cho trẻ thư giãn với món ngọt mà chúng thích. Hãy cho trẻ dần dần hiểu
ra tầm quan trọng của việc ăn kiêng để lấy lại sự cân bằng trọng lượng.
Song cũng không nên làm sự việc trở nên quá nghiêm trọng. Chính các
thành viên trong gia đình cũng phải "nhịn" nhiều món ăn khoái khẩu vì
không thể để trẻ nhìn mọi người ăn một cách thèm thuồng.