Khi
lên kinh đi thi, tình cờ Trạng Lợn (tên thật là Chung Nhi) làm quen
được Bùi tướng công, tướng công có ý ngắm chàng làm rể bèn mở tiệc khoản
đãi.
Canh
khuya tàn cuộc, người nhà Bùi tướng công đưa Chung Nhi vào thư phòng
nghỉ, chợt trông thấy trên tường có một vế câu đối: “Bát đao phân mễ
phấn”, bốn chữ trên là từ chữ “Phấn” mà ra. Phấn Khanh viết mấy chữ này
có ngầm thách những chàng trai đến hỏi nàng đối lại, nhằm “sát hạch” tài
ba của ý trung nhân.
Chung
Nhi nhìn năm chữ ấy, đọc thấy chữ “Phấn”, biết đó là tên của tiểu thư,
sẵn trên án có nghiên bút, cũng viết một chữ thật to tên mình là “Chung”
vào. Viết xong chàng quẳng bút lăn kềnh ra ngủ, không còn biết trời đất
là gì.
Đến
sáng, Phấn Khanh vào trông thấy chữ “Chung”, cho rằng Chung Nhi đã đối
là: “Thiên lý trọng kim chung”, bốn chữ này là từ chữ “Chung” mà ra.
Nghĩa đen cả hai vế câu đối là:
“Tám
đao chia hột gạo”, “Nghìn dặm nặng chuông vàng”, Chỉnh quá! Chỉnh quá!
Nàng nức nở khen hay, cho là tài Chung Nhi đáng bậc khôi nguyên.
Bùi
tướng công truyền gia nhân bày tiệc ở Thủy đình trên hồ bán nguyệt, cho
biểu thư một số vàng để biếu Chung Nhi làm lễ tiễn hành. Nàng lại đưa
cho Chung Nhi một phong thư chúc chàng thượng lộ bình an.
Chung Nhi lên đường lòng mừng rỡ vô cùng. Nàng Phấn Khanh cũng đi theo tiễn mấy dặm đường mới quay trở lại.
—————————————————–
Theo
phép chiết tự, chữ Phấn – tên nàng con gái Bùi tướng công – là do chắp
chữ Phân và chữ Mễ mới thành; nàng lại chia chữ Phân ra làm hai chữ: chữ
Bát, chữ Đao chắp vào chữ Mễ đặt ra thành một vế đối. Còn chữ Chung
tách ra theo phép chiết tự thành: Thiên + Lý = Trọng, ghép với chữ Kim
thành chữ Chung, cũng là một vế đối rất chỉnh về luật, về chữ và về
nghĩa