Ngày
xưa, tại Pandarang có cậu bé tên là Jamưtui mồ côi cha mẹ từ lúc còn
nhỏ. Cậu bé được người chú họ đem về nuôi. Jamưtui không biết chữ nhưng
rất thông minh, vẻ mặt khôi ngô tuấn tú.
Hàng
ngày Jamưtui phải bế em – con của người chú họ, đến ngồi chơi dưới bóng
cây đại thụ ngoài thành vua. Vì vậy một số quan trong triều đều biết
cậu bé, và cũng đem lòng thương yêu vì thấy Jamưtui ngoan ngoãn.
Một
hôm, nhân lúc thanh vắng, cậu ngồi hóng mát dưới bóng cây đại thụ, hí
hoái vẽ hình một con voi bảy ngà. Nhà vua đi qua thấy hình con vật lạ,
lấy làm ngạc nhiên, vì xưa nay chưa hề nhìn thấy hình con vật này bao
giờ. Nhà vua dừng lại chăm chú nhìn và nghĩ. “Có lẽ người vẽ này đã nhìn
thấy có con voi nào như vậy chăng? Hay là có một ẩn ý nào đây”. Nghĩ
vậy, nên nhà vua trẻ tuổi ấy liền trở lại triều rồi cho triệu cả quan
văn vỡ đến nghị bàn.
Trước đông đủ mặt bá quan, nhà vua phán:
–
Hôm nay trẫm ra ngoài thành ngắm cảnh thấy một điều lạ, dưới gốc cây
đại thụ không biết ai vẽ hình một con voi bảy ngà, trên lưng lại có một
mỹ nữ đang ngồi dệt lụa, trước vòi voi có gà trống đang vỗ cánh gáy.
Trong các khanh ai là người đã vẽ hình đó, hay biết kẻ đã vẽ hình này.
Văn võ bá quan khi nghe lời phán của vua đều ngơ ngác nhìn nhau, mãi sau mới có một vị quan trẻ tuổi đứng lên tâu:
–
Muôn tâu bệ hạ, thật ra kẻ hạ thần này cũng như bá quan có mặt hôm nay
không ai vẽ hình con voi bảy ngà đó, theo kẻ hạ thần được biết, có một
chàng trai mồ côi cha mẹ, hàng ngày bồng em con chú, đến ngồi chơi dưới
gốc cây đó đã vẽ. Tuy nghèo khổ nhưng nhìn tướng mạo rất khôi ngô tuấn
tú, thông minh lanh lợi, tên gọi là Jamưtui.
Nhà vua nghe tâu xong liền cho bãi trào, và truyền lệnh tìm ngay cậu bé đó.
Nói về Jamưtui, khi được lệnh vua đòi thì rất lo lắng. Vào đến triều cậu quỳ dưới bệ ngọc cúi đầu chờ lệnh.
Nhà vua hỏi:
Có
phải tên mày là Jamưtui? Có phải mày đã vẽ hình con voi bảy ngà dưới
gốc cây đại thụ có người mỹ nữ ngồi trên lưng dệt lụa, có con gà trống
vỗ cánh gáy trước vòi voi kia không?
Jamưtui tâu:
– Cúi tâu bệ hạ, chính kẻ ngu thần này đã vẽ hình con voi bảy ngà đó kính mong bệ hạ bỏ qua và tha chết cho kẻ ngu thần này.
Nghe Jamưtui nói nhà vua vẫn chưa tin, bèn hỏi lại:
–
Trẫm muốn biết ai là người đã khéo tay vẽ nên con vật đó, chứ không
phải trẫm muốn kết tội, vậy mi hãy nói thật. Nếu quả đúng mi là kẻ đã vẽ
hình con voi bảy ngà đó thì hãy vẽ lại cho ta xem, nếu vẽ đúng hệt con
voi bảy ngà dưới gốc cây đại thụ kia thì ta sẽ ban thưởng.
Jamưtui
y lệnh, vẽ ngay hình con voi bảy ngà với người con gái đang ngồi dệt
lụa trên lưng, con gà trống đang vỗ cánh gáy trước vòi voi. Nhà vua xem
xong hình vẽ lấy làm vui mừng lắm, bèn truyền lệnh ban thưởng, và cho
bãi trào.
Từ
khi được bức hình con voi bảy ngà, với cô gái ngồi dệt lụa, nhà vua tự
nhiên ngày đêm mơ tưởng làm sao có được một người con gái giống hệt
trong tranh sớm tối kề bên ngai vàng nâng khăn sửa túi. Nhà vua bèn
truyền lệnh cho Jamưtui phải đi tìm cho được con voi bảy ngà và người
con gái đẹp tựa trong tranh đó. Nhà vua giao hẹn trong vòng sáu tháng
phải tìm bằng được nếu không sẽ bị xử tội khi quân.
Ngày hôm sau, Jamưtui một mình một bóng, lưng mang túi lương khô, nhằm hướng Tây mà đi.
Thấm
thoắt một tháng đã trôi qua, nhưng Jamưtui vẫn chưa hề gặp một con voi
nào như vậy, mặc dù đã chui rúc vào khá nhiều khu rừng có voi lớn voi bé
voi mẹ voi con, từng đàn, từng lũ. Chàng lại tự trách mình sao quá dại
dột lại vẽ hình con voi bảy ngà đó. Trong lúc đang lo nghĩ thì Jamưtui
bị lạc vào một làng nọ. Chàng bị toán thanh niên vạm vỡ có đủ giáo, ná,
cung tên vây bắt, rồi dẫn đến một ngôi làng dựng trên một ngọn đồi cây
cối rậm rạp, ra mắt trưởng làng. Đó là một bà lão. Bà nhìn Jamưtui với
vẻ hung hăng rồi nói:
Mi từ đâu đến, có việc gì? Hãy nói ngay. Nếu cái mồm mi không biết nói điều thật thì đầu sẽ lìa khỏi cổ.
Trong lúc đó có một thiếu nữ nhan sắc tuyệt vời, tuổi độ trăng tròn, nhẹ nhàng bước tới gần bà, rồi nhở nhẹ thưa:
–
Thưa mẹ, con xem tướng mạo chàng trai nay không phải kẻ gian. Chàng tìm
đến làng ta hẳn phải có chuyện gì cầu cứu, xin mẹ nguôi giận hỏi cho rõ
ngọn ngành.
Chàng Jamưtui lúc bấy giờ mới hết vã mồ hôi, thưa:
–
Thưa bà, tôi là Jamưtui, mồ côi cha mẹ lúc còn nhỏ, phải sống nương nhờ
họ hàng. Một hôm tôi bế con của chủ nhà ra hóng mát dưới gốc cây đại
thụ ngoài thành vua, nhân lúc thanh vắng tôi vẽ chơi hình một con voi
bảy ngà với một thiếu nữ xinh đẹp đang ngồi dệt lụa trên lưng voi, và
một con gà trống đang vỗ cánh cất tiếng gáy. Không ngờ hôm đó nhà vua đi
qua, nhìn thấy hình vẽ. Nhà vua ra lệnh cho tôi phải đi tìm bằng được
con voi bảy ngà và người con gái xinh đẹp như vậy trong sáu tháng. Nếu
tìm không được sẽ bị xử tội khi quân. Nay đã hơn một tháng trôi qua
nhưng tôi vẫn chưa tìm thấy nay bị lạc vào đây kính mong được bà rộng
lượng ân xá.
Bà
lão nghe Jamưtui nói vậy lấy làm thương hại. Còn cô thiếu nữ chốc chốc
lại lén nhìn chàng trai khôi ngô tuấn tú. Suy nghĩ một lát, bà lão bảo
người con gái dẫn chàng Jamưtui vào khu rừng voi của mình để xem có con
nào vừa ý thì chọn.
Nàng
Bila Lak, tên người con gái, vâng lời mẹ dẫn đường cho chàng trai vào
khu rừng voi. Đến một khu rừng rậm rạp, nàng bảo chàng Jamưtui dừng lại,
rồi lấy chiếc từ và ra thổi ba tiếng dài, âm thanh vang khắp núi rừng.
Chẳng bao lâu đàn voi kéo đến tụ tập quanh nàng. Chàng Jamưtui tìm mãi
chỉ thấy có độc mỗi một con ba ngà, chứ không con nào được bảy ngà như ý
chàng đang tìm. Tuy không tìm được voi bảy ngà, nhưng lòng chàng cũng
phần nào được khuây khoả. Tối hôm đó chàng Jamưtui được làm khách quý
nhà bà lão và được nàng Bila Lak chăm sóc chu đáo.
Sáng
hôm sau chàng Jamưtui được nàng Bila Lak tiễn chân tận đầu làng. Trước
khi chia tay, nàng Bila Lak trao cho chàng Jamưtui một cây gậy và nói:
–
Đây là cây gậy thần ông bà thiếp để lại, nó sẽ giúp chàng trong mọi cơn
nguy hiểm. Cảm lòng chàng thiếp xin biếu làm quà. Nếu gặp cơn nguy hiểm
chàng hãy gõ nhẹ gậy thần này xuống đất ba lần thì mọi hiểm nguy sẽ
tiêu tan. Xin chúc chàng lên đường mọi sự tốt lành. Dù tìm được hay
không được voi bảy ngà với người thiếu nữ xinh đẹp cho vua, hết hạn
chàng hãy nhớ đến em.
Sau vài phút biệt ly lưu luyến, chàng Jamưtui nhận gậy thần rồi từ giã nàng Bila Lak.
Chàng
Jamưtui lại nhằm hướng Tây mà đi. Hết leo đèo lại lội suối đường nhiều
thú dữ chàng không hề biết sợ. Một hôm đang đi giữa quãng rừng âm u
chàng gặp hai con hổ khổng lồ đang lao tới. Trong lúc bối rối chàng nhớ
đến cây gậy thần. Chàng gõ nhẹ cây gậy xuống đất ba lần, quả nhiên hai
con hổ liền quay đầu nhảy vào rừng. Chàng thầm cảm ơn nàng Bila Lak và
càng nhớ nàng hơn.
Đang
tiếp tục leo núi băng rừng thì bỗng nghe có tiếng người nói vọng lại,
rồi hơn chục người chàng trai vạm vỡ xuất hiện, tay cầm mác, cầm ná.
Thấy vậy Jamưtui chỉ gậy thần vào đám trai tráng đó, tự nhiên họ buông
hết vũ khí, Jamưtui hỏi:
– Hỡi người anh em, vì có việc nên tôi đến đây. Các bạn có thể chỉ giúp đường đến nơi có voi bảy ngà không?
Những người này khi nghe chàng Jamưtui hỏi đến ngạc nhiên và lắc đầu trả lời:
– Ồ, không biết. Chúng tôi mới nghe đến lần đầu. Muốn rõ xin mời chàng vào gặp già làng chúng tôi để hỏi.
Già làng ở đây cũng là một bà lão, nhưng dáng vẫn còn khỏe mạnh.
Bà hỏi:
– Chàng từ đâu đến? Chẳng hay ta có thể giúp được việc gì?
Chàng Jamưtui thưa:
–
Thưa bà, tôi là Jamưtui, thừa lệnh vua truyền phải đi tìm cho được con
voi bảy ngà. Ròng rã gần ba tháng đường nhưng vẫn chưa tìm ra được con
voi ấy. Nếu không tìm được mạng tôi khó toàn. Là người ở đây lâu năm, bà
có thể chỉ đường giúp tôi tìm ra con voi như vậy chăng?
Nghe chàng Jamưtui nói vậy bà già lấy làm cảm động, bèn bảo chàng ngồi xuống rồi cho gọi người con gái đến mà rằng:
–
Này Hala Mưh con, chàng trai này theo lệnh nhà vua đi tìm con voi bảy
ngà. Con hãy dẫn chàng đến khu vừng voi của ta để chàng xem. Nếu con nào
bảy ngà thì bắt cho chàng. Sẵn lòng hào hiệp giúp người vun là tính tốt
xưa nay của làng ta.
Nàng
Hala Mưh vâng lời mẹ, dẫn chàng Jamưtui vào khu rừng voi. Khi đến khu
rừng, nàng lấy tù và ra thổi mấy hồi, lập tức cả đàn voi, nào đực nào
cái rầm rập chạy tới, tiếng trống vang rền. Nàng Hala Mưh lấy xâu lúc
lắc trong tôi ra rung ba tiếng. Đàn voi hung hăng là thế nhưng khi nghe
tiếng lúc lắc thì đứng im, cúi đầu chống vòi xuống đất. Chàng Jamưtui đi
quanh bầy voi hết lượt nhưng không tìm thấy con nào có bảy ngà. Chàng
hơi nản lòng, tỏ vẻ buồn bã. Nàng Hala Mưh thấy vậy an ủi:
–
Chớ vội buồn, chàng Jamưtui ạ, ở đây không có thiếp sẽ thưa cùng mẹ
giúp chàng đến vùng khác chắc chàng sẽ tìm được voi quý, xin chàng hãy
nhớ đến em.
Chàng Jamưtui nói cùng nàng lời biết ơn và hẹn ngày báo đáp.
Sáng hôm sau, trước khi chàng Jamưtui lên đường mẹ nàng Hala Mưh đem tặng chàng một chiếc roi mây, dặn rằng:
–
Đây là chiếc roi thần, tuy bề ngoài xấu xí nhưng có đủ phép trừ bất cứ
loài thú dữ nào. Gặp cơn nguy chỉ cần giơ chiếc roi này vào con ác thú
đó, nó liền trở nên hiền hậu. Chàng hãy nhận lấy để hộ thân và chúc
chàng lên đường gặp may mắn.
Chàng Jamưtui nhận roi mảy, cúi đầu cảm ơn rồi xin từ giã.
Đường
đi ngày càng vất vả, nhiều núi non hiểm trở, nhưng chàng vẫn không nản
lòng. Nhờ có chiếc roi thần nên chàng đã vượt qua mọi thú dữ, rắn độc:
Vào
một buổi chiều, sương phủ kín bầu trời, mặt đất, chàng vừa leo khỏi một
ngọn đồi thì gặp mấy người lực lưỡng đang đi ngược lại phía chàng.
Jamưtui lên tiếng hỏi:
–
Chào các bạn! Tôi vâng lệnh vua đi tìm voi có bảy ngà đã mấy tháng trời
chưa thấy đâu cả. Các bạn có thể mách đường giúp tôi được không?
Một chàng trai trong toán người đứng ra nói:
–
Hãy theo chúng tôi về gặp người già để hỏi mới biết được. Toán người
dẫn Jamưtui và một ngôi nhà sàn. Bà lão chủ nhà thấy có khách lạ chạy ra
đón:
– Ô, khách đã đến chân cầu thang thì lên nhà đi.
Nghe
bà chủ nhà mời một cách êm ái nhẹ nhàng, chàng lấy làm cảm động. Chàng
đi lên nhà và kể rất cặn kẽ về sự vô tình mà mình vẽ hình con voi bảy
ngà với một người con gái ngồi dệt lụa trên lưng; việc nhà vua ra lệnh
cho chàng phải tìm cho được con vật ấy trong thời hạn sáu tháng. Chàng
cũng kể qua cuộc hành trình gian khổ, đầy hiểm nguy, cũng như việc những
nơi trước đã giúp đỡ mình.
Nghe
kể xong, bà liền gọi người con gái út của mình đến. Một cô gái ăn mặc
gọn gàng, tươm tất, dáng điệu mảnh mai, đôi môi lúc nào cũng như hé
cười, đi ra. Vừa trông thấy khách lạ nàng liền cúi đầu chào. Bà nhìn con
rồi bảo:
Này
Chareh Batih con, đây là một chàng trai có chí, dũng cảm, tên Jamưtui
từ nơi xa tới để tìm con voi bảy ngà theo lệnh nhà vua. Nhưng suốt năm
tháng trời, đã qua nhiều vùng có voi mà vẫn chưa tìm được. Ta sẽ cho
chàng con voi bảy ngà duy nhất cửa mình. Mẹ nghĩ ắt có duyên trời run
rủi nên chàng mới tìm đến đây, vậy con hãy nghe lời mẹ, thu xếp hành
trang để cùng Jamưtui dẫn voi về dâng vua cho đúng hẹn.
Sáng
hôm sau chàng Jamưtui và nàng Chareh Batih sau khi thu xếp xong hành
trang, đến làm lễ từ biệt mẹ. Ba mẹ lấy chiếc nhẫn trao cho con gái, dặn
rằng:
– Đây là một báu vật do tổ tiên để lại, con hãy nhận lấy để hộ thân phòng nguy hiểm.
Đoạn,
nàng Chanh Batih và chàng Jamưtui cúi đầu xin từ giã mẹ hiền rồi cùng
nhau trèo lên lưng con voi bảy ngà. Đôi bạn trẻ thỏ thẻ bên nhau thu
ngắn đoạn đường, chẳng bao lâu hai người đã đến làng mẹ con Hala Mưh.
Khi trông thấy chàng Jamưtui và nàng Chareh Batih cùng con voi bảy ngà,
mẹ con nàng rất lấy làm mừng. Tối hôm đó sau khi cơm nước xong, bà cho
Hala Mưh sửa soạn hành trang về theo chàng Jamưtui và nàng Chareh Batih.
Bà trao cho nàng một chiếc áo thần để hộ thân phòng khi gặp nguy hiểm.
Sáng hôm sau cuộc hành trình lại tiếp tục.
Con
voi bảy ngà thuộc loại voi quý, có tài đi rất nhanh, vì vậy cuộc hành
trình của ra người chỉ một buổi đường đã đến làng mẹ con nàng Bila Lak.
Ba liền gọi cô con gái cưng đến, ngỏ ý với chàng Jamưtui và hai nàng,
cho Bila Lak cùng được theo. Mọi người đều vui vẻ mời Bila Lak.
Nhờ
tài đi nhanh của con voi bảy ngà, chẳng mấy chốc đoàn người đã về nơi
kinh thành. Chàng Jamưtui cho voi bảy ngà dừng lại, dựng tạm trại cách
thành vài dặm.
Sau khi nghỉ ngơi vài hôm, chàng Jamưtui cùng ba nàng nhằm ngày hẹn xin ra mắt nhà vua.
Được
toại nguyện, nhà vua cho tổ chức yến tiệc linh đình. Trong bữa tiệc
được thấy nhan sắc tuyệt vời của ba nàng, nhà vua nổi lòng tham muốn
chiếm đoạt. Hắn bèn nghĩ ra độc kế hãm hại chàng Jamưtui.
Hôm
sau hắn ra lệnh cho triệu hồi Jamưtui vào triều, bắt chàng nội trong ba
ngày phải đi tìm cho nhà vua một chum sữa gấu nựa. Khi nghe lệnh,
Jamưtui rất lấy làm lo sợ. Ba nàng trông thấy mặt chàng tự nhiên có vẻ
tiều tuỵ liền gặng hỏi. Chàng kể lại sự tình, Ba nàng nghe chuyện đó
biết âm mưu thâm độc của tên vua, rất lấy làm uất giận, nhưng không nói
ra. Nàng Chareh Batih nói với chàng:
–
Chàng hãy yên tâm, tưởng chuyện gì chứ việc vắt sữa gấu ngựa chàng
không lo, thiếp xin thay chàng chu tất. Quả đúng ba ngày sau nàng Chareh
Batih mang đến cho chàng một chum sữa gấu, Jamưtui hết lời cảm phục và
biết ơn nàng đã giúp mình.
Nói
về nàng Chareh Batih, sau hôm nhận lời giúp chàng Jamưtui, nàng một
mình đi vào rừng để tìm con gấu ngựa đang nuôi con nhỏ để vắt sữa. Nhờ
có chiếc nhẫn thần có quyền sai khiến bất cứ loài vật nào dù dữ tợn đến
mấy, nên nàng vắt sữa đem về được an toàn.
Cách
vài hôm sau, chàng Jamưtui lại thấy quân hầu đến đòi vào triều. Lần này
tên vua lại bắt chàng đi vắt sữa cọp, và cũng hẹn nội trong ba ngày
phải mang đến nộp một chum nữa.
Nghe
lệnh, chàng Jamưtui lại lo âu. Thấy chàng có vẻ buồn phiền, ba nàng lại
hỏi. Chàng Jamưtui nói lại lệnh nhà vua. Lần này Bila Lak xin được giúp
chàng.
Đúng ngày hẹn, nàng Bila Lak vào rừng dùng cây gậy thần sai khiến thú vật bắt cọp ngoan ngoãn cho mình vắt sữa.
Nhà
vua khi nhận được sữa cọp từ tay chàng Jamưtui thì lấy làm kinh hoàng
lắm, bèn tức tốc cho triệu các quan văn võ đến nghị bàn, tìm cách sớm
diệt cho được Jamưtui để chiếm đoạt ba người con gái xinh đẹp. Có một vị
quan già tâu:
–
Muôn tâu bệ hạ, kẻ hạ thần xin đưa ra một dụ kế, dù Jamưtui có tài phép
đến đâu chăng nữa cũng không thoát khỏi tay tử thần. Thần nghĩ, Jamưtui
chỉ có phép điều khiển được thú dữ trên rừng mà không thể điều khiển
được thú dữ dưới nước. Vậy xin bệ hạ truyền cho y xuống sông tìm vắt sữa
cá sấu. Cá sấu sẽ kết liễu đời y. Lúc bấy giờ bệ hạ tha hồ vui duyên
cùng ba nàng, xin bệ hạ chớ quá lo nghĩ mà hao mòn long thể.
Vua nghe tâu thì lòng mừng khôn xiết cho đó là một diệu kế. Ngay tức khắc, tên vua liền cho gọi Jamưtui vào triều.
Nhận lệnh mời này, Jamưtui rất lấy làm lo sợ, chàng tự trách mình: “Sao số kiếp ta lại gặp nhiều gian truân nguy hiểm…”.
Trong
lúc chàng đang than thở một mình thì nàng Hala Mưh đi ngang qua. Nghe
tiếng chàng than thở, nàng bèn dừng chân lại gặng hỏi chàng. Chàng
Jamưtui thuật lại chuyện. Nàng Hala Mưh an ủi:
– Tưởng việc gì khó, chứ việc cỏn con đó thì chàng cứ an tâm, thiếp xin lĩnh việc giúp chàng.
Đúng
như hẹn, ba ngày sau, nàng Hala Mưh mặc chiếc áo thần tìm đến nơi cá
sấu ở, dùng phép sai khiến thú dữ của chiếc áo để vắt sữa đem về cho
chàng. Khi quân hầu mang chum sữa vào, thì tên vua lấy làm ngạc nhiên
lắm. Tên cận thần già nhìn thấy vẻ lo âu của nhà vua, liền bước đến tâu
rằng:
Muôn
tâu bệ hạ, kẻ hạ thần tuy bất tài nhưng cũng xin dâng kế này để bệ hạ
xem thử. Xin bệ hạ cho đào một con đường hạ đạo rộng và vừa đúng tầm
người đi, dài chừng một dặm. Ở hai đầu hạ đạo cho chất nhiều rơm khô.
Sau đó ngài giả vờ sai Jamưtui chuyển một bức thư vào cho vua ảm phủ.
Khi hắn xuống đường hạ đạo rồi thì cho nổi lửa đốt rơm. Thần nghĩ dù hắn
có tài phép gì cũng không khỏi chết ngạt.
Vua nghe tâu liền cho thi hành ngay quỷ kế.
Đường
hạ đạo vừa làm xong thì nhà vua cho triệu Jamưtui đến, cùng với cả ba
người con gái đẹp, lấy cớ là mở tiệc khao đãi. Đang dở bữa tiệc, tên vua
đứng lên phán:
Hôm
nay trẫm lại nhờ chàng Jamưtui một việc rất quan trọng. Vì ngoài chàng
ra thì trẫm thấy không ai đủ tài năng đảm trách. Chàng hãy chuyển hộ bức
thư này cho Diêm Vương.
Nghe việc lạ, chàng Jamưtui buồn lắm. Trên đường về ba nàng lại hết lời an ủi chàng và bàn cách để trừ tên vua độc ác.
Chàng Jamưtui khi bước chân xuống địa đạo, liền chạy nhanh đến con đường ngách mà ba nàng đã dùng phép để mở, trở về nhà.
Nói
về tên bạo chúa, khi quân đến báo là chàng Jamưtui xuống địa đạo, liền
ra lệnh nổi lửa đốt rơm hai đầu. Trong lúc nhà vua đang mê say nhan sắc
của ba người con gái kiều diễm, thì có quân hầu vào báo rằng chàng
Jamưtui đã trở về, và đang đứng ngoài thành xin được ra mắt nhà vua.
Nghe tin báo, tên bạo chúa lấy làm hoảng sợ, ngất đi. Một hồi lâu tên
vua mới tỉnh, rồi truyền cho đòi chàng vào. Chàng Jamưtui vào triều tỏ
ra như không có gì xảy ra, bước ngay đến trước mặt nhà vua nói:
–
Tâu bệ hạ, khi hạ thần xuống âm phủ được các ngưu đầu mã diện đưa vào
yết kiến Diêm Vương. Kẻ hạ thần đã trao thư bệ hạ cho Diêm Vương. Đọc
xong bức thư, Diêm Vương truyền cho kẻ hạ thần về tâu lại bệ hạ rằng:
thuốc trường sinh bất tử hiện đang được pha chế chứ chưa có sẵn, khi nào
pha chế xong thì Diêm Vương sẽ gửi lên. Trước khi kẻ hạ thần xin cáo
lui để trở về trần gian, thì gặp một bà lão. Bà dặn thần rằng bà là mẫu
hậu của hoàng đế đương kim tại đương trần, tên là Takala. Từ khi cụ về
âm phủ tới nay, có nhiều lúc cụ nhớ đến hoàng tử, nhưng đường trần gian,
âm ti cách biệt. Nay nghe kẻ hạ thần là sứ giả của triều đình trên
đương thế, nên cụ nhờ kẻ hạ thần về trao bức thư này đến tận tay bệ hạ.
Cụ bà còn căn dặn thêm với kẻ hạ thần là nhớ tâu lại với bệ hạ hãy xuống
thăm cụ càng sớm càng tốt. Cứ theo đường địa đạo mà kẻ hạ thần vừa đi,
cụ bà đang đón chờ ở đó. Nếu theo đường khác e lạc khó tìm.
Tên
bạo chúa nhận bức thư mở ra xem. Đọc những lời lẽ trong thư hắn lấy làm
xúc động lắm. Hắn quyết định xuống âm phủ để gặp mẫu hậu.
Khi
đoàn xa giá nhà vua vừa xuống khỏi địa đạo thì lập tức chàng Jamưtui
cho chất rơm nổi lửa hai đầu địa đạo, khói toả mịt trời.
Thế là hết đời tên bạo chúa Takala, hoàng hậu cùng những tên nịnh thần đều biến thành tro bụi.
Chàng
Jamưtui được toàn dân tôn lên làm vua, sửa trị ngai vàng. Nàng Chareh
Batih lên làm hoàng hậu, hai nàng Hala Mưh và Bila Lak làm thứ phi. Dân
chúng được sống thanh bình, an cư lạc nghiệp, không còn nạn vua quan ức
hiếp như thời trước nữa.