Đoàn
chuyên gia y tế Cộng hoà Dân chủ Đức chúng tôi sang tới thủ đô Hà Nội
vào ngày 2 tháng 2 năm 1956, sau một thời gian ngót ba tuần đáp tàu liên
vận quốc tế từ thành phố Béclin. Chúng tôi cả thảy gồm 35 người, do
giáo sư tiến sĩ Kiếcsơ, nhà giải phẫu xuất sắc làm trưởng đoàn. Tất cả
chúng tôi sang Việt Nam lần đầu và đều tự hào nhưng cũng đều lo lắng,
hồi hộp trước nhiệm vụ mà Hội đồng toàn quốc Mặt trận dân tộc đã giao
cho là giúp trang bị nhà thương Phủ Doãn, tức Bệnh viện Hữu nghị Việt
Nam - Cộng hoà Dân chủ Đức sau này (nay là Bệnh viện Hữu nghị Việt - Đức
– BT), bằng những máy móc và dụng cụ y tế do nhân dân nước chúng tôi
gửi tặng nhân dân Việt Nam anh em. Riêng tôi và một vài anh chị em nữa,
trong đó có đồng chí Thítxkê, Tônman, Đvêsơ, Vítxtuba có nhiệm vụ hoàn
thành xưởng làm chân tay giả cho các đồng chí thương binh Việt Nam.
Tôi
còn nhớ, những ngày đầu tới Việt Nam, thời tiết khá lạnh và Tết Nguyên
đán cũng sắp đến. Một không khí nô nức chuẩn bị Tết. Chúng tôi đã được
sống với các bạn Việt Nam trong không khí ấy và sẽ không bao giờ quên
các món ăn dân tộc, các phong tục, các trò vui trong Tết cổ truyền.
Riêng đồng chí trưởng đoàn của chúng tôi còn được hưởng một vinh dự đặc
biệt cùng một số bạn quốc tế ăn tết với Bác Hồ. Đi dự về, đồng chí đã kể
cho chúng tôi nghe nhiều mẩu chuyện lý thú trong dịp vui hiếm có ấy và
chúng tôi đều hy vọng rằng trong thời gian công tác ở Việt Nam sẽ có dịp
được trông thấy Người. Và, không ngờ là chúng tôi đã không những được
trông thấy vị lãnh tụ kính yêu của nhân dân Việt Nam, mà còn được thưa
chuyện với Người, được ở bên Người nhiều lần.
Lần
thứ nhất là tối mồng 9 tháng 6, chúng tôi được Bác mời đến dự cuộc vui
trong vườn Phủ Chủ tịch do Người tổ chức riêng cho các chuyên gia các
nước xã hội chủ nghĩa ở châu Âu. Tôi nhớ đêm ấy Bác rất vui, coi chúng
tôi như người quen thân đã lâu và chính vì vậy, ngay từ giờ phút đầu,
chúng tôi hoàn toàn không cảm thấy những ngăn cách giữa vị lãnh đạo tối
cao của một nước với những công dân bình thường. Bác đã kể cho chúng tôi
nghe về những ngày đầu kháng chiến chống thực dân Pháp, về những đau
thương, mất mát mà nhân dân Việt Nam phải chịu đựng để giành cho được
nền độc lập tự do chân chính của mình. Bác nói: Bác thay mặt Chính phủ
và nhân dân Việt Nam chào mừng những người anh em xã hội chủ nghĩa đã từ
những phương trời xa sang đây chung sức, chung lòng giúp đỡ nhân dân
Việt Nam trong công cuộc xây dựng lại đất nước. Bác chỉ nói thế, không
đọc diễn văn trang nghiêm gì cả, cũng chính vì vậy mà chúng tôi càng
thám thía những điều Bác mong muốn. Bác đã đi gặp, nói chuyện với từng
đoàn chuyên gia. Với đoàn chúng tôi, Bác cũng hỏi rất kỹ về công việc
của từng nhóm, từng người. Biết tôi phụ trách nhóm chỉnh hình, Bác dừng
lại hỏi khá kỹ nội dung công việc và dặn nếu có yêu cầu gì thì cứ cho
Bác biết. Thấy chúng tôi còn rất trẻ, Bác hỏi thăm tình hình gia đình,
vợ con ra sao. Tôi có thưa với Bác là tôi chưa xây dựng gia đình, người
yêu của tôi đang công tác ở thủ đô Béclin. Chúng tôi hứa hẹn với nhau là
sẽ làm lễ thành hôn sau chuyến đi công tác này. Bác vỗ vai tôi thân mật
nói: "Cho tôi gửi lời thăm người bạn gái thân yêu của đồng chí và mong
hai người viết thư đều cho nhau". Tôi rất sung sướng được chuyển lời
thăm của Người tới người yêu của tôi. Trong chín tháng công tác ở Việt
Nam, tôi đã viết cho cô ấy những bức thư và điều thú vị là cho đến nay,
những bức thư ấy vẫn còn giữ được cả. Bác cũng có hỏi thăm đồng chí Ácnô
Brốc, người vừa mới cưới vợ được ba tháng thì nhận được lệnh đi công
tác ở Việt Nam. Đồng chí Brốc báo cáo với Bác rằng, lúc đầu người vợ
cũng buồn, nhưng khi hiểu rõ ý nghĩa công việc mà chồng sẽ làm thì lại
vui vẻ ngay...
Cũng
trong cuộc vui ấy, Bác đã đề nghị từng đồng chí chuyên gia hát một bài
dân ca của nước mình. Mở đầu là tiếng hát êm dịu của một nữ văn công
Việt Nam. Chúng tôi thấy hay quá, bởi vì làm thầy thuốc chúng tôi đâu có
tài hát! Mà các chuyên gia nước khác cũng chẳng hơn gì chúng tôi! Nhưng
rồi ai cũng hát. Đoàn chúng tôi rất ân hận là không thuộc một bài dân
ca nào cả, cho nên đã xin phép Bác hát bài "Lữ đoàn Tenlơman", một bài
hát quen thuộc của những người đã từng chiến đấu ở Tây Ban Nha. Và Bác
cũng gật đầu khen.
Nhờ
có lần gặp ấy, được Bác Hồ quan tâm, khuyến khích, tôi càng tự tin
trong công việc của mình. Chẳng hạn việc mở rộng xưởng chỉnh hình lúc
đầu không phải là đã được nhiều đồng chí Việt Nam tán thành. Tôi đã
trình bày ý kiến của tôi với một đồng chí cán bộ cao cấp của Việt Nam và
không ngờ Bác cũng biết chuyện này. Cuối cùng ý kiến của tôi đã được
Bác, đồng chí Trường Chính hồi ấy là Tổng Bí thư Đảng và đồng chí Thủ
tướng Phạm Văn Đồng ủng hộ.
Ngày
28 tháng 7 năm 1956, nhân dịp khánh thành Bệnh viện Hữu nghị Việt Nam -
Cộng hoà Dân chủ Đức, Bác Hồ đã tới thăm, mang đến cho cán bộ, công
nhân viên Việt Nam và Cộng hoà Dân chủ Đức niềm phấn khởi đặc biệt. Tiếc
rằng, tôi không có mặt hôm đó vì bận đi công tác địa phương. Nhưng ít
lâu sau, vào ngày 12 tháng 8, tại cuộc chiêu đãi tiễn Đoàn đại biểu Mặt
trận Dân tộc nước Cộng hoà Dân chủ Đức do đồng chí Smítxlơ dẫn đầu đang ở
thăm Việt Nam, tôi sung sướng được gặp lại Bác và có điều kiện báo cáo
với Người về công việc của chúng tôi. Tôi cũng không quên bày tỏ niềm
xúc động của mình về sự quan tâm của Bác. Bác bảo: "Chúng tôi cảm ơn các
đồng chí mới đúng chứ!". Bác tỏ ý quan tâm đặc biệt với vấn đề làm chân
tay giả và công tác thương binh xã hội nói chung. Qua những điều Người
hỏi, tôi nhận thấy rất rõ tình cảm yêu thương của Bác đối với anh em
thương binh. Thật ra, tôi đã nhận thấy điều đó ngay từ khi một đồng chí
bác sĩ Việt Nam cho tôi xem bức thư của Bác Hồ gửi anh em thương binh,
bệnh binh năm 1948. Lá thư ngắn, nhưng tràn đầy tình thương yêu của vị
cha già đối với những người con ưu tú của Tổ quốc, đồng thời thể hiện
nội dung hết sức đúng đắn đối với công tác thương binh. Tôi nhớ mãi một
câu trong lá thư đó: "Tôi cùng đồng bào luôn luôn nhớ đến các đồng chí".
Vừa qua, tôi đã được đi nghiên cứu tình hình công tác thương binh trên
toàn miền Bắc, vào đến tận khu giới tuyến ở Vĩnh Linh, cho nên đã có thể
báo cáo với Bác Hồ một số suy nghĩ của tôi. Bác từng nói "Thương binh
tàn chứ không phế", tôi nghĩ đó là một ý kiến hết sức quan trọng, bởi vì
nó động viên mạnh mẽ anh em thương binh luôn luôn nhìn thấy triển vọng
của đời mình, nghĩa là có thể trở thành người có ích cho xã hội. Bác Hồ
rất chú ý nghe những điều tôi thưa với Người.
Sau đó, Bác nhìn tôi với vẻ trầm ngâm:
- Đồng chí Ôđơ, đồng chí có vui lòng viết thành văn bản cho tôi những ý kiến đồng chí vừa nói không?
Tôi sung sướng đáp:
- Dạ, thưa Bác, được ạ!
Bác tỏ ý hài lòng. Một lát sau Người lại nói:
- Hay thế này vậy: tôi sẽ đề nghị một nhà báo của chúng tôi đến ghi lại những ý kiến của đồng chí và cho đăng lên báo.
Tôi
không ngờ điều tôi nói lại có thể có ích như vậy. Ít hôm sau, có một
đồng chí ở báo Nhân dân đến tìm gặp tôi và chúng tôi đã làm việc với
nhau trong hai giờ liền theo chỉ thị của Bác. Dĩ nhiên tôi có thể nói tỉ
mỉ hơn là khi thưa chuyện với Bác, và đã nói thêm về tầm quan trọng của
thể dục, thể thao đối với sức khoẻ của anh em thương binh – thật tình
là nó còn quan trọng hơn cả đối vì những người thường - nó giúp anh em
vững tin ở sức lực của mình, tự thấy làm chủ được sức khoẻ của mình,
không bị lệ thuộc vào thương tật hay trở ngại vì thương tật. Tôi cũng
trình bày một số kinh nghiệm về việc dạy nghề cho thương binh ở Cộng hoà
Dân chủ Đức và báo Nhân dân cũng giới thiệu lại.
Là
một thầy thuốc, tôi rất xúc động trước sự quan tâm của Bác đối với
thương binh, một mối quan tâm chứa chan tình thương yêu. Chính tình cảm
đó của Người động viên tôi nhiều trong những ngày công tác ở Việt Nam
cũng như trong suốt quá trình công tác sau này của tôi. Có thể nói:
Chúng tôi đã làm việc với tất cả trái tim mình.