Ngày
xưa có một anh học trò, con một nhà phú hộ, được nuông chiều và chăm
chút rất mực. Năm hai mươi tuổi, cha mẹ lấy vợ cho. Vợ chàng là một
người có nhan sắc lại
đoan chính. Hai người rất yêu nhau. Lấy vợ được nửa năm, chàng được
lệnh cha mẹ bảo lên học với cụ nghè trên tỉnh. Chàng đưa theo một người
lão bộc để lo cơm nước và hầu hạ. Vì đường sá cách trở, lại vì bài vở
học tập ngày một nhiều, nên đã nửa năm, chàng chẳng có dịp nào về thăm
vợ cả.
Một
hôm, vào khoảng nửa đêm, người vợ đang ngủ bỗng tỉnh dậy, thấy chồng
thình lình bước vào buồng. Nàng vừa mừng vừa ngạc nhiên, hỏi: – “Anh về
lúc nào?”. Đáp: – “Vừa về xong”. – “Sao anh không thức thầy mẹ dậy chào
hỏi trò chuyện rồi có ăn cơm để em đi thổi?”
Chồng khoát tay ngăn lại mà rằng:
–
Chớ! Chớ! Ta nhớ nàng quá lắm. Từ lâu, muốn về, chỉ sợ thầy mẹ mắng
chết. Hôm nay lén về đây một chút rồi đến gà gáy lại đi. Nàng chớ thức
giấc thầy mẹ dậy làm gì. Còn cơm thì ta đã ăn no ở chợ rồi.
Nói rồi tắt đèn lên giường. Vợ tin là thực, không căn vặn gì cả.
Đêm hôm sau, thấy chồng lại mò về, vợ không ngăn được mối nghi ngờ bèn gặng hỏi:
– Nơi anh học cách nhà đến hai ngày đường, sao anh lại về luôn được như thế?
Đáp:
–
Ta vì nhớ nàng nên đã giấu thầy mẹ xin về học với cụ huấn Lê cách đây
chừng mười dặm để tiện vài ngày về với nàng một lần. Nàng cứ giả cách
coi như không biết gì, nhất thiết chớ hở cho ai hay.
Từ
đó, chồng cứ vài ba ngày lại về một lần. Vợ vì yêu chồng nên kín tiếng.
Vì thế trong nhà ngoài ngõ chả một ai biết cả. Cứ như thế được nửa năm.
Bố mẹ chồng thấy con dâu ngày một xanh xao vàng vọt, cho là vì nhớ
chồng mà như thế nên một hôm viết thư bảo con trai xin phép về thăm nhà.
Thấy
chồng về, vợ coi là chuyện rất thường. Trái lại chồng thì rất vồn vã,
nhất là khi vào phòng riêng, chồng nói chuyện rất nhiều, kể lể nỗi niềm
nhớ nhung mong mỏi ra làm sao; khi được phép thầy về thì vui sướng hồi
hộp như thế nào, v.v… Không thấy vợ nói năng gì chồng tưởng là vợ giận
nên lại cố dùng lời dịu ngọt mơn trớn vợ. Vợ vẫn cúi đầu im lặng. Chồng
quay ra làm mặt giận, nằm day vào vách. Bấy giờ vợ mới lên tiếng:
– Anh làm như anh cả đời mới về một lần. Đóng trò với thầy mẹ chứ có phải đóng trò với em đâu?
Đến lượt chồng ngạc nhiên, ngồi nhỏm dậy, hỏi dồn một hồi:
– Thế nào? Thế nào? Nói mau! Nói mau!
Vợ bắt đầu cho chồng biết mọi việc từ nửa năm lại đây và nói:
– Con người ở cổ có một nốt ruồi đỏ, hai tai xâu lỗ, và một cái sẹo giữa trán nếu không phải anh thì còn ai nữa.
Nghe
nói, chồng biết là có sự lộn sòng, liền ôm đầu kêu khóc rất thảm thiết.
Bố mẹ và người nhà chạy vào hỏi chuyện. Sau khi nghe chồng kể rõ sự
tình, vợ mới biết là trong nửa năm nay đã ăn nằm với một người lạ đội
lốt chồng mình. Lại đến lượt vợ ôm đầu kêu khóc và toan sự đập đầu vào
cột. Tất cả mọi người phải xúm lại, hết lời khuyên can dỗ dành mới làm
dịu được cơn sóng gió.
Sau
đó mấy ngày, chồng lại cùng lão bộc lên trường, vợ đã thôi ý định tự
tử, còn bố chồng thì xin mấy đạo bùa về dán ở nhà. Ông dặn con dâu hễ
thấy có người vào, bất kể ai, cứ nắm lấy kêu lên; cả bọn con hầu đầy tớ
đã chực sẵn hễ nghe tiếng kêu sẽ từ bốn phía xông vào, kẻ gian dù có
chạy đường trời cũng không thoát.
Mấy
ngày yên lặng chả thấy có gì. Bỗng một đêm nọ nghe trong buồng, có
tiếng hô hoán, cả nhà nhanh chân chạy ùa vào thì thấy người vợ đang nắm
lấy tóc một người, miệng kêu la không ngớt. Họ xông lại trói thủ phạm
vào cột nhà và toan nện cho một trận nhưng khi ông bố nhìn kỹ vào mặt
thì lạ thay, rõ ràng không phải là ai xa lạ mà từ đỉnh đầu đến gót chân
chính là đứa con yêu quý của ông. Đến nỗi bà mẹ khi thấy kẻ gian thì
khóc òa lên và một hai bắt phải cởi trói ngay cho con mình.
Bấy giờ cả xóm đó tới xem rất đông, không một ai làm sao mà phân biệt nổi. Nhiều người nói:
– Thôi rồi, ông lại bắt lầm lấy con ông rồi!
Mấy cụ già bảo:
– Chi bằng cho người cấp tốc đi gọi con trai trên tỉnh về đây, lúc ấy muốn đoán định ra sao hãy hay.
Đến
ngày thứ hai, người con ở nhà trọ tiếp được tin, đi suốt đêm về đến
nhà. Tất cả mọi người nhìn lại thì lạ lùng thay, “tuy hai mà một, tuy
một mà hai”. Họ giống nhau đến nỗi cuối cùng tất cả mọi người không biết
ai là thực, ai là giả nữa.
Vì
thế, họ đành phải trói cả hai lại, đưa lên trình huyện. Quan huyện chả
biết làm sao mà phân xử, liền sai giải luôn lên tỉnh. Quan tỉnh sau mấy
ngày tra khảo cũng không tìm ra được manh mối gì, mới đệ vụ án về cho
vua.
Bấy
giờ nhà vua đang trị vì là một tay xử kiện giỏi. Hoàng đế đã từng tìm
ra được manh mối nhiều vụ án rất oái oăm. Khi thấy giải hai người đến
trước sân rồng, trước hết, vua sai vệ sĩ lột hết áo quần của họ ra. Sau
khi khám nghiệm, vua quan đều lấy làm kinh dị lạ không những nét mặt,
hình dạng, ngay đến nốt đen, nốt đỏ, những chỗ hiểm trong người cũng đều
giống như như rập khuôn vậy. Vua ngoảnh bảo các quan đại thần:
– Đích là trong này có một con ma. Nếu là người thì đâu thể giống nhau thần dị như thế.
Một viên quan tâu lên:
–
Tôi nghe loài ma quỷ là vật vô hình, ánh sáng mặt trời có thể xuyên qua
không để lại bóng. Xin bệ hạ cho đưa chúng nó ra giữa nắng xem đứa nào
không có bóng là chính thị.
Lời
tâu ấy được đem thi hành ngay nhưng không có kết quả, vì khi có hai vừa
bước ra ngoài trời, bóng của họ đã in rõ trên nền gạch.
Cuộc
hỏi cung bắt đầu. Hai người được đưa ra hai nơi tra hỏi cặn kẽ từ cái
tên cúng cơm đến những chuyện rất vụn vặt. Nhưng đọc lại hồ sơ thì vua
lại càng ngạc nhiên thấy rằng cả hai bên khai đúng như nhau, không sai
một ý. Nhà vua vò đầu suy nghĩ. Cả triều đình bó tay không tìm ra được
một phương kế nào nữa. Cuối cùng, vua xa giá đến đền Phù Đổng đốt hương
cầu thần giúp đỡ. Thần ứng đồng lên nói:
–
Nó là một con chuột già sống lâu năm thành tinh, bây giờ lửa nước đồng
sắt không làm hại được, bùa chú đối với nó cũng mất linh nghiệm. Chỉ có
cách là lên thiên đình mượn Ngọc Hoàng thượng đế viên ngọc mắt mèo, đưa
ra, nó sẽ hiện nguyên hình. Nhưng nay trên thiên đình bận nhiều việc nên
khó lòng mượn được. Tôi sẽ vì bệ hạ tử ra tay một phen. Trước hết đem
hai đạo bùa dán vào lưng để nó không thể trốn được.
Tự
nhiên giữa không trung bay xuống hai đạo bùa rơi vào tay vua. Khi xa
giá về cung, vua sai thị vệ dán ngay vào lưng hai người và bắt họ ngoảnh
lưng vào nhau trước sân rồng. Tự nhiên thấy có một người cố sức dãy dụa
nhưng dường như bị trói chặt không sao cựa nổi. Bỗng chốc mây kéo mù
mịt rồi tiếp theo là tiếng sét nổ vang trời. Khi trời đã quang đãng lại,
người ta thấy giữa sân chỉ còn có một người, bên cạnh đấy là một con
chuột khổng lồ, lông lá xù xì có năm sắc, râu trắng như tuyết, nằm chết
ngay đơ không động cựa.
Vụ
án nhờ thế được tỏ. Vua sai đốt xác con tinh thành than đem vứt xuống
sông. Còn con dâu nhà phú hộ mãi đến hơn một năm mới trừ được hết độc.