Năm
lên 4 tuổi, cậu bé Nguyễn Ngọc Ký gặp cơn bạo bệnh và bị liệt cả hai
tay. Bản thân ông và gia đình đều rất buồn và xót xa. Tuy vậy, Nguyễn
Ngọc Ký vẫn nuôi ước mơ được đi học như chúng bạn cùng trang lứa.
Năm
lên 7 tuổi, cậu bé Ký lân la đến trường, đứng ngoài nghe cô giáo giảng
bài, xem các bạn học. Về nhà, cậu bắt đầu hì hụi tập viết bằng … chân.
Thời gian đầu việc tập viết với Ký quả như cực hình. Dần dần Ký viết
được chữ O, chữ V… Không những thế, Ký còn vẽ được hình bằng thước và
com-pa, làm được lồng chim để chơi… Nhờ sự cố gắng tuyệt vời đó, cậu đã
được đi học và học rất giỏi. Năm 1962, Nguyễn Ngọc Ký được Bác Hồ tặng
Huy hiệu cao quý của Người. Năm 1963, Ký tham dự kì thi chọn học sinh
giỏi Toán toàn quốc và xuất sắc đứng thứ 5. Cậu lại được Bác Hồ tặng Huy
hiệu cao quý lần thứ 2.
Lên
cấp III, theo lời động viên của bạn bè khắp nơi trên cả nước, Nguyễn
Ngọc Ký đã chọn ngành Văn. Năm 1966, ông nhận được giấy báo nhập học
ngành Ngữ Văn của Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội. Trong 4 năm học Đại
học, dù bệnh tật luôn đe dọa tính mạng, song Nguyễn Ngọc Ký vẫn miệt mài
đèn sách. Ông quan niệm: “Xa trường, xa lớp nhưng không xa sách vở”.
Năm 1970, ông bảo vệ thành công Luận văn Tốt nghiệp và cho ra đời tập
truyện ký viết bằng chân đầu tiên với nhan đề : “Những năm tháng không quên” (sau đổi là “Tôi đi học”, tái bản nhiều lần).
Tốt
nghiệp Đại học ngành Ngữ Văn, Nguyễn Ngọc Ký đã nghe theo lời khuyên
của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng về Hải Hậu, Nam Định (quê ông) làm thầy
giáo để “dạy các em phấn đấu vượt mọi trở ngại, khó khăn, góp phần thống
nhất nước nhà”.
Để
có thể giảng bài với đôi tay tật nguyền, thầy giáo Nguyễn Ngọc Ký đã
suy nghĩ, tìm tòi nhiều phương pháp, cách thức dạy học. Ông đã nghĩ ra
phương pháp dạy học rất sáng tạo, hiệu quả. Ông tự thiết kế các mô
hình, dàn bài trên bìa một tờ giấy cứng, bên ngoài có một tờ giấy trắng
che lại. Giảng đến đâu, ông dùng chân kéo tờ giấy che ở bên ngoài xuống,
thế là những con chữ xuất hiện. Cùng với đó là giọng giảng sinh động,
truyền cảm, ông đã thuyết phục được học sinh. Không những thế, trong bất
cứ bài học nào ông cũng nghĩ ra những câu đố bằng thơ rất độc đáo.
Chẳng hạn, khi dạy tác phẩm của Nguyễn Trãi, ông vào bài bằng mấy câu
đố:
Đức tài rực sáng sao Khuê
Bút là gươm sắc phò Lê cứu đời
Lấy dân làm đạo, làm vui,
Hùng văn thuở ấy đất trời còn vang
Cứ
thế, người thầy tật nguyền nhưng sáng ngời ý chí và nghị lực ấy đã
truyền lửa cho biết bao thế hệ học sinh. Trong lần về thăm huyện Hải
Hậu, Nam Định, cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã nói: “Thầy giáo Nguyễn Ngọc
Ký là đại diện cho sự phấn đấu phi thường và kỳ diệu, là tấm gương sáng
cho các bạn trẻ hôm nay, nhất là những người khuyết tật noi theo”. Ngày
20/11/1992, ông được vinh dự nhận danh hiệu Nhà giáo ưu tú.
Năm
1993, sau khi vào Thành phố Hồ Chí Minh chữa bệnh, sức khỏe của ông suy
giảm nghiêm trọng. Năm 1994, ông chuyển công tác từ Nam Định vào làm
việc tại Phòng giáo dục quận Gò Vấp để vừa công tác vừa chữa bệnh.
Ông
được mời đi giao lưu, giáo dục lẽ sống và bồi dưỡng lòng ham học cho
thế hệ trẻ ở khắp nơi trên cả nước. 1500 buổi nói chuyện tại các nhà
trường THCS, THPT, THCN là một con số đáng nể phục!
Ngoài
60 tuổi nhưng ông vẫn làm công tác tư vấn tâm lý và giáo dục cho giới
trẻ qua tổng đài 1080, vẫn miệt mài ngồi bên máy vi tính gõ những câu
đố, những vần thơ… Ông đã được kết nạp vào Hội Nhà văn Việt Nam.
Tâm
sự về nghề nghiệp, thầy nói: “Nhờ nghề giáo mà tôi thực hiện được những
ước mơ, hoài bão của mình, tham gia đóng góp được nhiều cho xã hội!”
Nguyễn
Ngọc Ký quả là một tấm gương sáng ngời về nghị lực vượt lên số phận.
Ông đã chứng minh cho mọi người thấy một người tật nguyền như ông vẫn có
thể trở thành người có ích cho xã hội. Tên tuổi Nguyễn Ngọc Ký đã được
mọi người biết đến với lòng trân trọng, ngưỡng mộ, cảm phục. Mãi mãi,
cái tên Nguyễn Ngọc Ký sẽ còn in sâu trong tâm trí mỗi người dân Việt
Nam hôm nay và cả mai sau.