Truyền
thuyết kể rằng, cách đây khoảng hơn 500 năm, có một vị tướng Đại Việt
đưa quân qua vùng đất này để tấn công một tòa thành của người Chiêm
Thành để trả đũa việc tướng Chiêm xua quân gây hấn biên giới. Thấy việc
tấn công trực diện thành dường như bất khả vì thành xây bằng gạch nung
rất kiên cố và có thể gây hao binh tổn tướng nên vị tướng nọ bèn nghĩ ra
kế đánh thành bằng hơi độc. Vốn có biệt tài sử dụng các loại lá cây
độc, lại tinh thông cả thuật thiên văn, bấm độn đoán thời tiết nên ông
chờ đúng thời điểm thuận tiện đốt lá nhờ gió đưa hơi độc vào thành của
quân Chiêm… Nhưng đột nhiên gió đổi chiều, hơi độc thổi ngược lại khiến
quân Đại Việt bị trúng hơi độc nằm ngổn ngang. Riêng vị tướng và vài cận
vệ nhờ ở tuyến đầu nên không bị ảnh hưởng.
Thật
đau xót và uất ức khi chính mình làm hao binh tổn tướng của mình, vị
tướng nghĩ là mình không có phận làm tướng nên ông quyết định đem thanh
kiếm báu chôn đi và tìm nơi mai danh ẩn tích. Ông tìm đến một ngôi chùa
nằm ở tận xa trong núi xin được xuống tóc quy y. Sau khi biết rõ sự
việc, vị sư trụ trì sơn am đồng ý cho ông ở lại.
Từ
đó ông đảm nhận công việc ở chốn hậu liêu, dùng sức khỏe của mình để
làm các việc nặng nhọc của chùa như xách nước, xay lúa, giã gạo, bửa
củi… Ông lại hiền lành, sẵn sàng gánh vác công việc cho người khác nên
các sư, tiểu trong chùa đem lòng mến phục. Một thời gian sau, ông xin
phép sư trụ trì được lĩnh hội kinh Phật. Sư trụ trì muốn thử thách ông
nên đưa cho ông một cuốn kinh nhật tụng. Ông xem qua rất nhanh và trả
lại sư thầy bảo rằng mình đã thuộc hết. Sư thầy không tin nhưng tò mò
muốn thử tài ông nên yêu cầu ông đọc lại. Lạ thay, chẳng những ông thuộc
lòng cuốn kinh mà còn trả lời thông suốt những câu hỏi của vị sư già.
Từ đó bao nhiêu kinh sách trong chùa, vị trụ trì đều đem cho ông học.
Càng đọc, càng học, ông càng thuộc nhanh chóng và càng hiểu lẽ đạo một
cách tường tận.
Khi
ông đã đọc hết kinh sách trong chùa, vị sư trụ trì giới thiệu ông đến
học ở một chùa khác, nơi có những vị cao tăng đạo hạnh hơn. Thế là ông
khăn gói đến học đạo ở chùa Chúc Thánh, nằm ở phía bắc Hội An ngày nay. Ở
đây, ông càng tỏ ra thông tuệ kinh sách, học đâu nhớ đấy và ông dứt bỏ
được những chuyện đời phiền trược để tịnh tâm cầu kinh, niệm Phật…
Mấy
năm sau, chùa Chúc Thánh nhận được một chiếc áo cà sa được dệt bằng vỏ
cây đỗ trọng cùng với lá thư của một vị cao tăng người Trung Quốc gửi
thăm nhà sư Mộc Giả. Nhờ đó, mọi người mới biết đến thân phận của ông.
Thì ra, tuy là một vị tướng người Việt nhưng ông thuộc dòng dõi một cự
tộc ở Vân Nam – Trung Quốc; do hoàn cảnh lịch sử, một chi phái của dòng
họ này đã sang định cư tại vùng đất phía Nam đèo Hải Vân, tới ông là đời
thứ tư…
Ít
lâu sau đó, sư Mộc Giả rời chùa Chúc Thánh và trở về lại vùng đất trước
đây ông quy y nương nhờ cửa Phật. Tại đây, ông chọn một khu gò đồi cao
rồi dựng một ngôi chùa nhỏ lấy tên là chùa Xuân Sơn, chùa vẫn còn tồn
tại đến ngày nay, cách cầu Bà Bầu khoảng vài trăm mét về phía Bắc.
Nghe
tiếng nhà sư Mộc Giả, đạo hữu gần xa đến viếng chùa Xuân Sơn và nghe
giảng kinh ngày một đông. Trong số đạo hữu đến chùa, có một thiếu nữ đem
lòng yêu thương nhà sư. Bị cự tuyệt, nàng trở về rắp tâm bằng mọi giá
phải lấy được nhà sư Mộc Giả làm chồng, dù có phải giở những thủ đoạn
gian trá. Nàng cố tình có thai với một người đàn ông rồi lên chùa thản
nhiên tuyên bố với mọi người rằng cái thai trong bụng nàng là con của
nhà sư Mộc Giả. Không ít đạo hữu tin đó là chuyện thật và bắt đầu xa
lánh ngôi chùa, cũng như có cái nhìn thị phi đối với sư Mộc Giả.
Về
phần mình, tự biết lòng không hề vướng bận chuyện thị phi, trái đạo lý,
sư Mộc Giả bình tâm sắp đặt mọi chuyện an lành cho thai phụ, chỉ yêu
cầu nàng hãy yên lòng trở về nhà chờ ngày sinh nở. Nhưng khi nàng về lại
nhà, dân làng phản ứng quyết liệt và xua đuổi nàng ra khỏi làng. Biết
chuyện, sư Mộc Giả thuê người dựng một chiếc lều nhỏ dưới chân một chiếc
cầu gần chùa Xuân Sơn và cắt đặt người lui tới giúp đỡ, chăm sóc cho
thai phụ, chờ ngày khai hoa nở nhụy.
Về
sau, sư Mộc Giả nhường chùa Xuân Sơn lại cho một người học trò họ
Trương trụ trì, còn ông thì lặng lẽ đi về phương Nam tiếp tục cuộc đời
tu hành của mình… Thời gian trôi qua, vị sư lập chùa có phải thật là sư
Mộc Giả, người chịu mọi tiếng đời thị phi để cứu mạng sống của hai mẹ
con thiếu phụ đa tình kia hay không thì chẳng ai biết rõ. Chỉ biết rằng,
chùa Xuân Sơn và cầu Bà Bầu – tên gọi sau khi thai phụ đến ở chân cầu,
vẫn tồn tại đến ngày nay.