Ngày
ấy, những người dân chài vùng biển Nam trong khi ra khơi làm ăn thường
bị nạn bão tố. Mỗi lần bão tố thình lình xảy ra, nếu trên đất liền chỉ
đổ cửa đổ nhà thì trên mặt biển khơi có thể chết hàng trăm hàng ngàn
mạng người. Không những thế, nó còn chôn vùi xuống đáy biển biết bao
nhiêu là chài lưới thuyền mảng, những của cải mồ hôi nước mắt tích góp
không phải chỉ một ngày. Vì vậy, những dân chài vùng biển Nam luôn luôn
kêu gào oán trời trách đất độc ác phũ phàng, làm cho con mất cha, vợ lìa
chồng, táng gia bại sản. Cuối cùng lời kêu gào của họ cũng động đến tòa
sen.
Một
hôm, đức Bồ tát ngự trên tòa sen nghe tiếng than khóc, bèn cúi nhìn
xuống toàn cõi biển Nam. Nhận thấy muôn ngàn sinh linh bỏ mạng đều là
những con người nghèo khổ, lương thiện, chất phác, thì động lòng thương,
bèn cởi ngay chiếc pháp y mình đang mặc, xé thành từng mảnh ném xuống
mặt biển rồi niệm chú cho mỗi mảnh hóa thành một con vật để chúng làm
công việc cứu giúp dân chài. Vừa xuất hiện ở Nam hải, những con vật ấy
bèn bơi lội khắp nơi, cố gắng làm những việc được giao, nhưng tiếc thay,
thân tuy dài nhưng không lớn mấy, không thể chống chọi với những cơn
bão tố, chẳng đủ sức che chở cho ghe thuyền, nên cuối cùng kết quả không
có bao lăm. Bởi vậy, một hôm chúng họp lại trình lên tòa sen để Bồ tát
biết sự bất lực của chúng.
Thấy
vậy Bồ tát bèn lại mượn mấy bộ xương voi ném xuống biển, biến vật nhỏ
bé trước thành những con vật vừa dài vừa có vóc dáng khổng lồ. Bồ tát
dặn:
–
Ta đã làm cho thân thể các ngươi đủ sức đương đầu với bão tố. Từ nay ta
giao cho các ngươi chuyên giữ phận sự cứu nguy trên vùng Nam hải. Các
người hãy cố gắng làm tròn bổn phận. Để giúp đỡ các ngươi, ta sẽ cho một
số quân đi theo hầu hạ, đồng thời nhắc nhở các ngươi không được lơ là
với công việc.
Nghe
lời truyền phán, những con vật mới vui lòng chia nhau bơi đi các nơi
làm chức trách của mình. Bọn quân hầu cũng chia nhau đi theo hết lòng
giúp rập.
Nhưng
rồi Bồ tát vẫn chưa vừa ý. Nhận thấy mấy con vật mới sáng tạo vì quá to
xác nên không được hoạt bát nhanh nhẹn, Bồ tát lại ban cho chúng phép
thần thông để có thể sớm phát hiện ra tiếng kêu cứu xa hàng nghìn dặm.
Đối với bọn quân hầu của chúng, Bồ tát cũng cho một tên dùng mực để chỉ
đường vạch lối cho chủ chúng đi được nhanh, một tên thì cầm một ngọn đao
luôn luôn hộ vệ tả hữu. Như vậy là Bồ tát đã tạo nên cá voi, cá mực và
cá đao.
Nhờ thế, dân chài vùng biển Nam cũng được an ủi đôi phần, từ đó họ gọi cá voi bằng cái tên ông Nam hay cá Ông[1].
* * *
Bấy
giờ ở một cửa biển Nam có một vàm sông[2] quen gọi là vàm Ông-đốc, cá
một cá ông làm trấn thủ tại đây. Cá ông làm việc tận tụy, ít khi xa rời
vùng mình cai quản. Nhưng một hôm nó có ý muốn được ngao du một chuyến
ra khỏi cõi bờ đi ngắm xem cho thỏa thích. Bèn tỏ ý ấy với những kẻ tùy
tòng. Cá mực và cá đao đều trả lời:
–
Hiện nay chưa phải là mùa dông bão, ngài có đi xa cũng chẳng sao. Chỉ
mong ngài phải nhớ trở về sớm, đừng có la cà mà hồi không kịp. Hơn nữa
cũng cần phải bảo vệ tấm thân vì ngài đang kỳ thai nghén.
Được
lời, cá Ông bèn quyết chí xuất hành cùng với cá mực và cá đao. Chương
trình đã định là sẽ vòng theo mũi biển, cứ như bây giờ gọi là mũi
Cà-mau, lần lượt tiến dần về phía Đông bắc đi thăm các vàm khác, ở đó sẽ
gặp một số bạn bè và người thân thuộc, cuối cùng lại vòng theo mũi biển
trở về chỗ cũ. Nhằm một buổi tối trời, cả đoàn kéo nhau ra đi. Vừa qua
khỏi mũi đất, họ tiến vào vàm sông Bồ-đề. Đối với cá Ông, cuộc ngao du
trở nên ngày một thú vị khi được gặp lại những người quen thuộc và được
thấy những cảnh đẹp ở vùng biển Đông. Cho nên cả đoàn lưu lại nhiều ngày
ở vàm sông Bồ-đề để xem cho thỏa thích trước khi rời lên phía Bắc.
Nhưng
một đêm nọ, bỗng nhiên khi lạnh làm rởn da mọi người: báo hiệu một con
sóng gió hãi hùng sắp nổ ra. Không ngờ bão tố lại xuất hiện bất thường
như vậy, cả đoàn hết sức hoảng hốt. – “Trời nổi bão rồi. Chúng ta phải
mau mau trở về đi thôi, vì thế nào cũng có người bị nạn”. Tiếng chủ
tướng kêu lên. Và nó ra lệnh cho cả đoàn tập hợp đông đủ để chuẩn bị trở
về.
Nhưng
khi quay về, vì có phép thần nên cá Ông đã biết tin có một chiếc ghe
đang vô tình vượt ra khơi thuộc vàm sông Ông-đốc. Cá Ông than thở: –
“Ôi! vẫn còn có một chiếc ghe vật vờ ngoài vàm. Bây giờ mà trở về vùng
ấy nhanh nhất cũng phải mất một ngày. Biết làm sao bây giờ?”.
Thấy cá đao thỉnh thoảng lại thúc bên hông, cá Ông hết sức lo lắng.
Bây
giờ về đường biển thì e không kịp vì phải đi quanh. Chỉ có cách là
chúng ta chịu liều đi tắt và vàm sông Bồ-đề, tuy có nguy hiểm nhưng may
ra có thể cứu kịp.
Bèn
nói sao làm vậy. Cả đoàn lại tiến phát. Nhưng khi lọt vào vàm thì bão
đã nổi lên mỗi lúc một mạnh. Hơn nữa, sông Bồ-đề thì nước cạn mà thân
của Ông Nam lại quá vĩ đại. Tuy vậy, theo dấu cá mực, nó vẫn cố trườn,
có lúc phải trườn trên bãi đầy cây tràm và cây đước xây xát cả mình mẩy.
Hồi này nó đang mang thai. Vì phải cố gắng dùng hết sức lực nên cái
thai bị sảy. Cá bé ra đời đáng lý có thể sống được, nhưng vì nước cạn
nên chẳng mấy chốc thì tắt thở. Tuy lòng đau như cắt và mệt hết sức, Ông
Nam vẫn không bịn rịn, vẫn cố xuyên qua dòng nước để về cho kịp vàm
sông Ông-đốc, nơi mình có trách nhiệm với dân chài.
Chẳng
mấy chốc cả đoàn về được đến nơi. Bão khi ấy đang tung hoành dữ dội hết
mức. Cá Ông vùng ngay ra khơi, chỉ một nhoáng nó đã đội chiếc ghe sắp
bị chìm lên lưng đưa vào bờ. Dọc đường nó còn cứu được năm chiếc khác
đang vật vờ trong sóng hiển.
Vì
đuối sức nên chuyến ấy Ông Nam bị đau đến mấy tuần. Biết được mọi việc
xảy ra, Bồ tát cũng vui lòng xá cho đoàn đệ tử tội tự ý rong chơi mà
không bẩm báo.
Từ đó, dân chài vàm sông Bồ-đề lập miếu thờ đứa con vô tội của cá Ông đẻ rơi trong khi làm phận sự.
Hiện
nay cái miếu ấy vẫn còn, người ta quen gọi là miếu Ông Nam. Cả cái dòng
nước mà Ông vượt qua ngày nay đã bồi thành bãi, người ta cũng gọi là
bãi Ông Nam[3].