Ngày
xưa, có một ông quan huyện có tài xét xử. Trong dân gian có vụ nào rắc
rối gay go nhất, ông đều có cách tìm ra manh mối và phân xử công bằng.
Một hôm, có hai người đàn bà dắt nhau đến công đường với một tấm vải. Trước mặt quan một người mếu máo thưa:
–
Bẩm quan, sáng nay con mang một tấm vải đi chợ bán, bà này hỏi mua, con
đưa ra cho bà ấy xem. Thế rồi tự dưng nó cướp không tấm vải bảo là của
nó, nhất định không chịu trả lại cho con nữa. Thật là chuyện ngược đời!
Xin quan đèn trời soi xét.
Quan nhìn người đàn bà thứ hai thì thấy bà này cũng rưng rưng nước mắt kể:
–
Bẩm quan, chính nó mới là đồ ăn cắp. Tấm vải này là của con vừa dệt
xong mang đi chợ. Con để nó trong cái thúng khảo thế mà vừa ngoảnh đi
một lát nó dám thò tay vào lấy, chính con bắt được quả tang. Thế mà nó
còn dám đặt điều để vu oan giá họa…
Quan
ngắt lời hai người, mỗi bên phải cử ra một người ít nhất cũng đã chứng
kiến vải của mình bị lấy mất. Nhưng cả hai đều không tìm ra được người
làm chứng chỉ vì sự việc xảy ra ở một nơi vắng vẻ, lúc đó chưa có người
qua lại. Quan lại gọi hai người lính lệ, bảo chúng đi về tận nhà mỗi bên
thử xem có phải đúng vải của họ dệt ra như lời khai hay không. Nhưng
khi hai người lính trở về thuật lại thì quan rất lấy làm ngạc nhiên, vì
cả hai đều có khung cửi như nhau, khổ vải bằng nhau và chính sáng sớm
ngày xảy ra câu chuyện bên nào cũng mang một tấm vải đi chợ bán. Thật
rắc rối làm sao! Quan cố nhìn vào thần sắc từng người để dò ý tứ. Nhưng
quan chỉ thấy vẻ đau đớn vì mất của hiện trên nét mặt của cả hai người,
không có gì khác hơn. Suy nghĩ một chốc, quan ôn tồn bảo họ:
–
Cả hai mụ đều có lý do cả. Biết làm sao bây giờ. Thôi ta phân xử cho
thế này: giờ đem cắt tấm vải ra làm đôi, chia cho mỗi người một nửa. Thế
là ổn. Hãy đi về nhà mà làm ăn!
Nói
xong, quan sai lính đo vải xé ngay giao cho mỗi người một nửa. Thấy
thế, một người đàn bà bỗng ôm mặt khóc thút thít. Lập tức quan sai trả
cả tấm cho người đàn bà ấy rồi thét lính trói người kia lại vì chỉ có
chủ nhân thực sự của tấm vải mới đau xót bật ra tiếng khóc kia. Quả
nhiên, sau một hồi tra khảo, người đàn bà kia đành cúi đầu nhận tội.
Một
hôm khác, quan đi hành hạt qua một cái chợ. Bỗng nghe tiếng chửi rủa
huyên náo, vội tiến lại xem có việc gì. Đến nơi, thấy một người đàn bà
đang gân cổ lớn tiếng chửi kẻ bắt trộm con gà của mình. Hỏi người xung
quanh thì họ cho biết là mụ ta chửi như thế đã được hai ngày, ai cũng
lấy làm khó chịu. Quan vội sai người hầu bước tới dùng lời khuyên can:
– Này mụ kia, sao lắm lời thế?
– Của tôi, tôi xót – người đàn bà đáp – can gì đến chú.
Nói xong lại tiếp tục chửi. Quan bèn cho chức dịch đòi người đàn bà lại hỏi:
– Sao mụ ác khẩu thế! Một con gà phỏng có bao nhiêu mà mụ chửi rủa nặng lời?
Người đàn bà nói:
–
Bẩm quan, con chăm chút bấy lâu mới được một ổ gà. Nay nó lấy mất cả gà
lẫn trứng, không căm tức sao được! Quan hất hàm bảo bọn chức dịch:
–
Ta ghét con mụ này ngoa ngoắt, độc mồm độc miệng làm cho xóm giềng điếc
tai nhức óc đã hai ngày, không thể không trị tội được. Vậy cho đi rao
trong xóm đòi tất cả mọi người lại đây. Cho mỗi người tát cho mụ một cái
vào má, cho rõ đau để trả nợ việc mụ xúc phạm đến sự yên tĩnh của hàng
xóm.
Lệnh
quan ban ra, mọi người không thể không tuân theo. Mặc dầu ai cũng ghét
mụ ngoa ngoắt, người ta vẫn thấy thương con người đã mất gà lại bị đánh,
cho nên ai cũng sẽ tay và nhẹ mỗi người một cái vào má cho xong. Chỉ có
tên trộm căm mụ đã gào đến tam đại nhà mình nên hắn cứ theo đúng lệnh
quan, vả mụ một cái thật đau cho bõ tức.
Nhưng
khi hắn vừa bước ra khỏi đám đông thì quan đã gọi giật lại, vạch đúng
tội trạng và tâm lý của hắn. Hắn không thể chối cãi được, đành thú nhận.
Một
hôm khác, quan đi qua một ngôi chùa lớn, ghé vào vãn cảnh. Sư cụ trong
chùa thấy quan, liền ra đón tiếp kính cẩn, mời vào phương trượng ngồi
uống trà. Sư than thở với quan rằng mình có giữ cho chùa một số tiền lớn
không may bị kẻ trộm trộm mất cả. Nhưng sư không biết ngờ cho một ai.
Lại cũng không muốn trình quan, sợ làm khổ lây đồ đệ. Nay sư có ý nhờ
quan kín đáo xét hộ mình một tý.
Quan hỏi rõ sự tình vụ trộm trước sau rồi chỉ lên tượng phật bảo với sư cụ:
–
Đức Phật ngài thiêng lắm, sao hòa thượng không cầu người tìm giúp, chả
hơn nhờ tôi ư? Đức Phật có phép làm cho kẻ gian cầm hạt thóc nảy mầm.
Nếu hòa thượng muốn, tôi sẽ xin vì nhà chùa thử một phen.
Nói
rồi bảo sư cụ biện lễ cúng Phật. Trong khi hòa thượng làm lễ, quan cho
gọi tất cả sư vãi và những kẻ ăn người ở trong chùa ra để chay đàn. Quan
bảo mỗi người một tay cầm cành phan và tay kia cầm một nắm thóc, đã
ngấm nước, rồi nói:
–
Sư cụ có cho biết chùa ta trước đây có mất một số tiền mà không biết rõ
ai là người lấy trộm. Ta chắc chỉ có người trong chùa lấy mà thôi. Ta
nghe đức Phật ngài rất thiêng. Bây giờ, mỗi người cầm một nắm thóc đã
ngâm nước rồi vừa chạy vừa niệm Phật. Nếu đúng là kẻ gian, đức Phật sẽ
làm cho thóc trong tay nảy mầm. Như vậy gian ngay tỏ rõ, khỏi phải tra
khảo phiền phức.
Cả
đoàn người mới chạy được vài vòng thì quan đã thấy có một chú tiểu
thỉnh thoảng lại hé tay cầm thóc ra xem. Liền đấy, quan sai mọi người
dừng lại, bắt lấy chú tiểu, vì chỉ kẻ có tật mới giật mình, nên thỉnh
thoảng lại nhìn trộm như thế.
Chú tiểu thấy vạch đúng lý, nhận tội