Trong những năm 30 của thế kỉ XX, Sài Gòn – Chợ Lớn – Gia Định (nay là thành phố Hồ Chí Minh) là nơi tụ hội nhiều bậc tiền bối cách mạng, nhiều người yêu nước; nơi đùm bọc, chở che cán bộ của Đảng hoạt động giữa sào huyệt của kẻ thù. Khi về nước, Anh Lý Tự Trọng được giao nhiệm vụ làm liên lạc bí mật cho Đảng, vừa tuyên truyền cho Đoàn, vận động thanh niên tại nơi mà Ban Thường vụ Trung ương Đảng quyết định chuyển trụ sở của Trung ương vào sau Hội nghị Trung ương lần thứ nhất (tháng 10 năm 1930), bởi đây là một thành phố lớn, thuận lợi cho việc liên lạc với nhiều tổ chức Đảng của các nước, với Quốc tế Cộng sản, nhất là với Hương Cảng (Trung Quốc), Marseille (Pháp) bằng đường thủy; đặc biệt Sài Gòn – Chợ Lớn – Gia Định là địa bàn có cơ sở quần chúng mạnh và phong trào đấu tranh sôi sục, gan góc, đọ sức về mưu lược, về trí tuệ liên tục của công nhân, nông dân, các giới cho dù thực dân Pháp đàn áp, khủng bố ác liệt.
Chính vì vậy, theo lời kêu gọi của Trung ương Đảng về đẩy mạnh đấu tranh ủng hộ, phối hợp với phong trào Xô Viết Nghệ – Tĩnh, ngăn chặn khủng bố đẫm máu của thực dân thống trị; công nhân, nông dân, học sinh Sài Gòn – Chợ Lớn – Gia Định liên tục đấu tranh. Công nhân[1] tổ chức bãi công, đòi tăng lương, giảm giờ làm việc, chống đánh đập thợ, đòi tự do hội họp, biểu tình, bãi công; Nông dân[2] biểu tình chống khủng bố, bắt bớ, giết người, phá nhà, đốt hồ sơ; Học sinh[3] bãi khóa, rãi truyền đơn phản đối bắt bớ, đuổi học học sinh, kỉ niệm Cách mạng tháng Mười Nga; Tiểu thương[4] bãi chợ chống thuế cao, chống độc quyền kinh doanh,… Thực dân thống trị điên cuồng lùng sục, đàn áp, bắt bớ.
Cuộc mít tinh ngày 08 tháng 02 năm 1931 tổ chức theo chỉ đạo của Xứ ủy Nam Kỳ để kỷ niệm một năm cuộc khởi nghĩa Yên Bái, diễn ra trong bối cảnh sôi sục đấu tranh ấy; những phát súng của anh Lý Tự Trọng nổ ra để bảo vệ người cán bộ đang diễn thuyết bên lá cờ đỏ giương lên trước đám đông quần chúng tại đường Larégnère (nay là đường Trương Định) đã tiêu diệt tên cò thực dân cáo già, nhưng anh Lý Tự Trọng không kịp thoát khỏi vòng vây dày đặc của mật thám Pháp..
Thực dân pháp dùng mọi nhục hình man rợ để tra tấn Anh, hòng moi được bí mật, nhằm đánh phá Đảng ta, dù cho “mặt anh đẫm máu, hai mắt rũ xuống, máu còn ứ ra mồm ra tai, vậy mà một mực không nói nửa lời. Thật can đảm lạ lùng!…”[5] như nhà báo, nhà văn tiến bộ Pháp André Violis đã miêu tả, ca ngợi Anh trong “Đông Dương kêu cứu” (Indochine S.O.S).
Tinh thần quả cảm của Anh trong bảo vệ Đảng, bảo vệ bí mật các cơ quan của Đảng đã thể hiện tinh thần gan thép, kiên trung, giữ vững khí tiết, hiên ngang đối mặt trước mọi cực hình. Tinh thần quả cảm của Anh đã tố cáo, góp phần vạch trần chính sách thực dân tàn bạo, chế độ cai trị hà khắc, hành vi tra tấn man rợ trong nhà tù không chỉ với Nhân dân ta, mà trực tiếp với Nhân dân Pháp, với những người Pháp có lương tri. Vụ án Anh Trọng đã trở thành một vấn đề quốc tế vào thời điểm đó.
Tinh thần quả cảm của Anh làm bọn đầu sỏ thuộc địa lúng túng, đưa Anh ra tòa đại hình Sài Gòn xét xử, kết tội dù lúc đó anh mới tuổi 17 và thực dân Pháp đã hèn hạ sát hại Anh rạng sáng ngày 21 tháng 11 năm 1931. Trong xà lim tử hình Anh vẫn lạc quan, tin tưởng vào thắng lợi của cách mạng, đọc Truyện Kiều, tập thể dục. Bọn lính canh cảm phục, kính nể gọi Anh là ÔNG NHỎ.
Tinh thần quả cảm của Anh được hình thành từ quê hương Hà Tĩnh giàu truyền thống yêu nước, cách mạng, từ cộng đồng người Việt ở Đông Bắc Thái Lan; đặc biệt, được tích tụ, vun đắp bởi sự chăm sóc, bồi dưỡng, dìu dắt trực tiếp của Bác Hồ về lý tưởng cách mạng, con đường cách mạng, phương pháp cách mạng, qua lĩnh hội tác phẩm “Đường cách mệnh” của Bác; tinh thần quả cảm đó được bồi đắp, hun đúc trong thực tiễn công tác cách mạng, trong các tập thể, từ những tấm gương chiến đấu, hi sinh của các chiến sĩ cách mạng, những người yêu nước.