Ngày
xưa, có một anh học trò trẻ tuổi nhà nghèo xơ nghèo xác. Vì có cha mẹ
già, anh phải lang thang đây đó làm nghề gõ đầu trẻ để nuôi thân và nuôi
cha mẹ. Mãi về sau, anh được một phú ông ở một làng nọ mời về “ngồi”
tại nhà mình để dạy cho con học. Anh mừng thầm từ nay có chỗ yên thân để
ôn luyện văn bài. Phú ông có nhiều nhà, y cho thầy đồ ở riêng ngôi nhà
thờ ở góc vườn để được tĩnh mịch dạy học. Ngoài ba bữa cơm hàng ngày của
phú ông, anh còn nhận được tiền gạo của những người khác có con đến học
với anh, nên anh cảm thấy đầy đủ.
Phú
ông có một cô con gái đã đến tuổi lấy chồng. Từ ngày có anh đồ tới, cô
con gái cảm thấy lòng mình đỡ trống trải. Mặc dầu ở ăn cách biệt, cô gái
và anh đồ vẫn nhiều phen gặp gỡ. Cô đâm ra yêu chàng ngày một tha thiết
và cô cũng được chàng yêu lại. Mối tình vụng trộm cứ thế mỗi ngày trở
nên keo sơn, không thể gỡ ra được nữa. Vì thẹn thò và sợ hãi, cô gái
cũng không dám nói thật cho cha mẹ biết.
Hai
người yêu nhau như vậy đã được vài năm. Nhưng một ngày nọ, có một nhà
phú hộ khác ở cùng miền, mang trầu cau đến dạm cô cho con. Cha mẹ cô gái
thấy hiếm có đám nào môn đăng hộ đối hơn thế, nên hối hả nhận lời.
Nhưng khi hỏi ý kiến con gái thì phú ông đâu có ngờ rằng con mình xưa
nay ngoan ngoãn là thế, trước việc nhân duyên tốt đẹp của mình lại tỏ ra
khó tính lạ lùng. Cả vợ lẫn chồng hết lời dỗ dành con, nhưng không kết
quả. Mãi về sau, cô gái mới cho cha mẹ biết là mình đã chỉ thề non hẹn
biển với anh đồ và quyết kết nghĩa trăm năm. Nghe nói thế, phú ông từ
lòng thương con chuyển sang giận dữ. Đời nào ông lại chịu hạ mình gả con
cho một người kiết xác như vậy. Ông nhất định không để con gái làm sai
chuyện hứa hôn. Cô gái trước còn khăng khăng từ chối, nhưng sau bị gia
đình và họ hàng ép buộc, nên tuy uất ức mà đành ngậm miệng. Con về phía
anh học trò biết phận mình không đất cắm dùi, nên cũng không dám tỏ bày
nỗi lòng với vợ chồng phú ông. Vì vậy, sự định đoạt của phú ông coi như
mười phần đã xong đến tám chín.
Thấm
thoát mà đã một năm nữa lại trôi qua. Con trai nhà phú hộ sau mấy lần
sêu tết đã chuẩn bị xong lễ cưới. Vì không có ai bênh vực, không một
người đồng tình nên cô gái nhẫn nhục kia cảm thấy quẫn trí. Không còn
biết cầu cứu với ai, cô quyết tự liều tấm thân còn hơn phải lấy người mà
mình không ưa. Một đêm nọ, trước ngày đón dâu, cô trốn lên nhà học tự
tình với anh đồ. Hai bên chuyện trò than vãn với nhau đến tận sáng. Cuối
cùng cô gái lấy gói thuốc độc mang sẵn trong mình ra uống lén, và chỉ
một lát quằn quại chết ngay trong lòng anh học trò.
Thấy
người yêu tự vẫn mà trước sau vẫn không một lời bộc bạch cho mình biết,
anh học trò lòng đau như cắt. Nhưng dầu không ngăn được nước mắt giàn
giụa, anh cũng cảm thấy hết sức bối rối và sợ hãi, nghĩ đến cái chết bất
ngờ của người yêu nhất định sẽ làm cho mình mang tai vạ vào thân.
– Nếu mình đeo gông ngồi tù thì cũng đành cam chịu, nhưng cha mẹ già rồi đây biết cậy nhờ vào ai?
Càng
nghĩ anh càng bủn rủn chân tay. Cho đến lúc gà gáy canh năm mà anh vẫn
chưa biết xử trí thế nào. Cuối cùng anh nghĩ ra một kế. Anh đứng dậy đi
kiếm cuốc thuổng rồi đào dưới gậm giường mình nằm một cái huyệt. Đào
xong anh ôm lấy thi thể của cô gái mà thề với vong linh nàng:
Kiếp này duyên đã lỡ duyên
Quyết xin giữ trọn lời nguyền kiếp sau.
Sẵn có bút son trên bàn, anh viết vào tay cô gái hai câu:
Thử sinh duyên vị liễu;
Nguyện kết hậu sinh duyên.
Viết
đoạn, anh đặt xác cô xuống huyệt, lấp đất lại, lại sửa sang nền nhà
thật cẩn thận, nhặt từng hòn đất, sắp từng viên gạch, rồi chùi rửa cuốc
thuổng không để một vết tích gì khả nghi. Xong đâu đó anh lại lên giường
nằm đợi trời sáng.
Lại
nói chuyện nhà phú ông sáng hôm sau thấy con gái mất hút, bèn cho người
đi khắp mọi ngả để tìm. Bên nhà trai nghe tin cũng cho người do la khắp
miền. Nhưng ngày một ngày hai vẫn không một manh mối, không một tin tức
gì mới mẻ. Phú ông đoán con gái mình vì không cam chịu ép duyên nên đã
liều thân hoại thể ở chỗ nào xa xôi. Mặt khác sợ bọn quan nha lính tráng
dựa dẫm vào việc này để đục khoét, nên ông cố ỉm đi không dám trình
báo. Cuối cùng, sau những ngày hối tiếc thở than của bà con thân thích,
sau những cuộc bàn tán xôn xao của xóm giềng, câu chuyện cô gái mất tích
cùng với thời gian xóa mờ dần trong mắt trong ký ức mọi người.
Về
phần người học trò, sau khi bí mật chôn xác người yêu, phần vì thương
cảm quá độ, phần vì muốn tránh mặt vợ chồng phú ông, nên được ít lâu anh
thôi dạy. Phú ông cho là thầy đồ thất tình, cũng không nghi ngờ gì cả.
Rời nhà phú ông, anh đi thật xa, kiếm được một chỗ ngồi dạy khác, rồi cố
nén đau khổ, tự rèn luyện thành tài để đợi khoa thi. Sau mười lăm năm
sôi kinh nấu sử, sức học của anh uyên bác không ai bì kịp. Anh đi thi và
đậu luôn tiến sĩ. Những ngày vinh quy rộn ràng tấp nập đã qua, nhà vua
bổ anh làm quan ở một trấn gần kinh kỳ, bố mẹ cũng như hàng xóm mỗi lần
gặp anh, ai cũng khuyên anh lấy vợ kẻo muộn người nối dõi, nhưng anh một
mực mỉm cười, không gật đầu cũng không từ chối.
Hồi
bấy giờ ở một thị trấn do quan tân khoa trị nhậm, có một nhà phú hộ
hiếm hoi sinh được một cô gái nhan sắc sinh đẹp, nhưng lại có tật. Từ
lúc sinh ra, mấy ngoan tay cô bị váng dính liền nhau, và vì thế bàn tay
trái luôn nắm lại không thể mở ra được. Thấy con tật nguyền, nhà phú hộ
lấy làm buồn phiền. Họ bắn tin ra hễ ai chữa khỏi cho con gái mình thì
sẽ vui lòng hậu tạ tất cả gia sản.
Bao nhiêu danh y nội khoa, cũng như ngoại khoa tìm đến chữa chạy bằng đủ các món thuốc, nhưng cô gái chứng nào vẫn tật ấy.
Quan
tân khoa lúc mới tới vùng đó đã loáng thoáng nghe được tin này. Mặc dầu
đó là cái tin hơi lạ, quan tân khoa vẫn không bận tâm. Mãi về sau, nhân
một chuyến đi hành hạt, quan ghé vào nhà phú hộ định bụng xem thử cho
biết. Thấy có quan đến nhà phú hộ tiếp đón rất trọng thể. Nghe con hỏi
về chuyện bàn tay con gái, chủ nhân cho biết con gái mình đẻ vào ngày,
tháng, năm nọ, nhưng vừa lọt lòng không may đã mang tật nguyền. Nghe lời
trình bày của phú hộ, quan đã lấy làm chột dạ, vì ngày tháng năm sinh
của cô gái này lại trùng khớp một cách lạ lùng với ngày tháng năm mất
của người yêu của mình trước đây. Quan liền nói:
– Chúng tôi cũng biết chút nghề y. Cụ hãy cho cô em ra đây thử xem sao.
Nhà
phú hộ vào buồng dắt cô gái ra, khi thấy mặt nàng, quan bỗng nhiên bồi
hồi xúc động, vì giống hệt mặt người yêu xưa, hầu không sai một nét.
Quan liền sai người hầu múc đến cho mình một thau nước lã. Đoạn quan cầm
bàn tay nàng nhúng vào nước, rồi tự mình vuốt các ngón tay. Tay quan
vuốt tới đâu, váng bỗng trôi đi tới đó. Cuối cùng năm ngón búp măng của
cô lại xòe được ra như thường. Khi mấy ngón tay vừa duỗi một mối kinh
ngạc đến với mọi người, vì họ thấy lộ ra những dòng chữ:
Thử sinh duyên vi liễu,
Nguyện kết hậu sinh duyên.
Mười
chữ son vẫn còn đỏ thắm trong bàn tay cô gái. Nhưng tất cả mọi người
lấy làm ngạc nhiên hơn khi quan luôn tiện kể lại câu chuyện cũ của mình
chôn kín trong lòng từ bao nhiêu năm nay: nào là hai người yêu nhau ra
làm sao, cô gái nhà phú ông nọ bị ép uổng như thế nào, cuối cùng cô đã
tự tử vào lúc nào và được mình chôn cất, thề bồi, v.v… Quan ứa nước mắt
kể mãi, kể mãi; sau đó quan chỉ vào cô gái và nói:
– Thật là có trời! Đúng là một cuộc tái sinh không thể nào ngờ được!
Nhà
phú hộ sau đó gả cô gái cho quan và biếu chàng rể tất cả gia sản làm
của hồi môn. Đám cưới tổ chức rất linh đình, co vị đại thần, người của
nhà vua về dự. Rồi quan đưa vợ về quê chào cha mẹ họ hàng. Quan còn
không quên đưa vợ tìm đến nhà phú ông cũ, người đã đón mình ‘ngồi” dạy
học tại nhà ngày trước. Thấy người đàn bà giống với con gái mình thủa
xưa như đúc, phú ông rất đỗi kinh ngạc. Phú ông càng ngẩn người khi nghe
quan kể lại câu chuyện về đứa con mất tích thủa nào. Mới đầu phú ông tỏ
ý không tin. Nhưng khi quan chỉ chỗ chôn cô gái ở gậm giường, và sai
đào lên, quả đúng như vậy.
Từ đấy quan nhận cả hai người phú hộ làm ông nhạc, và ăn ở với cô gái trọn đời.