Hồi
đó tôi học tại một trường Trung học Vienne. Anh bạn giỏi nhất lớp là
một học sinh mười sáu tuổi có thiên bẩm đặc biệt về mọi phương diện. Rất
siêng năng, có cao vọng, rất có giáo dục, đẹp trai, thông minh xuất
chúng; hết thảy chúng tôi đều công nhận rằng tiền đồ của anh rực rỡ. Vì
vậy chúng tôi mượn tên nhà ngoại giao đại tài Metternich để đặt biệt
hiệu cho anh. Có lẽ người ta có thể trách anh một điều là ăn bận bảnh
bao quá lúc nào cũng rất tề chỉnh: quần luôn luôn có nếp mới ủi, cà vạt
thắt rất có nghệ thuật.
Những
ngày mưa, người tài xế của thân phụ anh lái một chiếc xe lộng lẫy đưa
đón anh. Nhưng mặc dầu sống xa hoa như vậy, anh vẫn rất giản dị, nên
chúng tôi đều quý mến anh.
Một
buổi sáng, mọi người ngạc nhiên thấy chỗ ngồi của “Metternich” bỏ
trống. Tới bữa trưa người ta mới cho hay tại sao. Thân phụ anh là một
nhà lý tài ai cũng biết tiếng mới bị bắt đêm trước. Công việc làm ăn của
ông là một vụ lường gạt đại qui mô. Chỉ hôm trước hôm sau mấy ngàn
người nghèo khó cực khổ ki cóp trong bao lâu bỗng bị bóc lột hết ráo.
Các báo hàng ngày luôn luôn ham bêu xấu thiên hạ, đăng những tít to
tướng làm rùm beng vụ đó lên, in hình thủ phạm và cả hình gia đình thủ
phạm nữa trong bài tường thuật.
Chúng
tôi hiểu anh bạn đáng thương đó tại sao nghỉ học rồi. Nhục nhã quá, anh
không dám nhìn mặt chúng tôi. Chỗ ngồi của “Metternich” bỏ trống hai
tuần lễ, trong hai tuần đó báo chí vẫn tiếp tục rêu rao, bêu xấu.
Rồi
tới tuần lễ thứ ba, một buổi sáng, cánh cửa mở ra và “Metternich” bước
vô. Anh cúi đầu xuống, đi lại chỗ ngồi, mở sách ra và gục đầu đọc liền.
Suốt hai giờ học anh không hề ngước mắt lên tới một lần.
Nghe
tiếng kiểng, chúng tôi ào ào túa ra hành lang để nghỉ giải lao.
“Metternich ” ra trước chúng tôi, quay lưng lại chúng tôi và đứng trước
một cửa sổ, cô độc, bề ngoài có vẻ chăm chú ngó kẻ qua người lại ở ngoài
đường. Chúng tôi biết rằng anh làm cái bộ dữ dằn, “nan du” như vậy chỉ
để tránh cặp mắt của chúng tôi thôi. Anh đứng một mình trong cái xó của
anh.
Chúng
tôi bỗng nhiên mất vui, thấu nỗi cô độc ghê gớm của anh. Chúng tôi biết
rõ rằng anh bạn đáng thương đó đương chờ một cử chỉ thân ái của chúng
tôi. Nhưng chúng tôi rụt rè, ngại ngùng không tiến lại gần anh, không
biết tỏ thiện cảm với anh cách nào để khỏi chạm lòng” tự trọng” của anh.
Chúng tôi hèn nhát chần chừ hoài, không dám bước bước đầu.
Trong
khi còn ngại ngùng do dự không biết nên có thái độ ra sao thì kiểng lại
đánh, thế là hết giờ ra chơi. Nghe tiếng kiểng, “Metternich” quay phắt
lại, chẳng nhìn chúng tôi, vội vã về lớp. Nhăn nhó, bực tức, môi nhợt
nhạt, anh ngồi vào bàn rồi lại cúi gầm đầu vào cuốn sách.
Tan
học buổi sáng, anh hấp tấp ra về liền. Chúng tôi cảm thấy khó chịu về
sự nhút nhát của mình, cùng nhau tìm cách cứu vãn. Nhưng đã quá trễ. Cơ
hội đã bỏ lỡ, không còn trở lại nữa. Sáng hôm sau chỗ ngồi của anh bạn
chúng tôi lại bỏ trống. Chúng tôi kêu điện thoại về nhà anh thì hay rằng
anh không có nhà. Tội nghiệp anh, ở trường về, anh thưa với má rằng anh
bỏ học. Và ngay tối hôm đó anh rời kinh đô (tức Vienne), lại một thị
trấn nhỏ, xin vô làm công trong một nhà bán thuốc. Từ đó chúng tôi không
gặp lại anh nữa.
Nếu
anh tiếp tục học thì chắc chắn anh em không ai theo kịp được anh. Hiển
nhiên là tại chúng tôi ngần ngại, do dự, không biết ngỏ ít lời an ủi anh
mà lúc đó anh rất cần, nên anh mới phá ngang làm hại tương lai của anh
như vậy. Buổi sáng đó, chỉ cần một lời thiện cảm, một cử chỉ âu yếm thôi
là anh đủ sức để vượt khỏi cảnh khốn khổ của anh. Mà chúng tôi không tỏ
chút tình thân với anh, an ủi anh, không phải là tại chúng tôi thiếu
hiểu biết, hoặc lãnh đạm, hoặc xấu bụng. Không! Chỉ tại chúng tôi thiếu
can đảm. Rất nhiều khi chúng ta thiếu can đảm nên không tìm được lời
thích hợp để nói đúng lúc. Đành rằng, lại hỏi chuyện một người lòng tự
trọng đương bị thương tổn kịch liệt, là một việc khó khăn, tế nhị đấy.
Nhưng kinh nghiệm lần đó đã cho tôi bài học là đừng bao giờ do dự, cứ
nên theo xúc động đầu tiên của lòng mà lại cứu giúp một người đau khổ vì
chính trong những lúc gian nan của người, một lời nói, một cử chỉ của
ta mới có giá trị nhất.