Ngày
xưa, ở một vùng nọ, có vợ chồng kia hiền lành và chăm chỉ, hai người
lấy nhau đã lâu mà vẫn chưa có con, họ cầu Trời khấn Phật mãi nhưng vẫn
chưa có kết quả.
Hôm
ấy, sau khi hai vợ chồng đi lễ chùa về, trời đang nắng bỗng nổi cơn mưa
lớn, sấm chớp nổ đùng đùng làm cả hai xanh mặt, vội vã chạy đến một cái
miếu nhỏ ở bên đường để núp tạm tránh sét, khi chạy gần đến bậc thềm
thì người vợ trợt té, úp bụng xuống đất.
Chồng
thấy vậy thì hoảng quá, bồng vợ mang vào bên trong miếu, tưởng rằng vợ
bị sây sát gì, nhưng người vợ bảo là chẳng bị trầy trật ở đâu cả, chỉ
thấy hơi đau nhói một chút ở bụng mà thôi.
Mưa
tạnh trời quang, vợ chồng đưa nhau về nhà và một tháng sau thì người vợ
mang thai. Biết rằng Trời Phật đã nhận lời, hai người mừng vô hạn, bèn
lấy một phần ba của cải đem đi bố thí cho người nghèo để đền ơn.
Đến ngày khai hoa nở nhụy, người vợ sinh ra được một thằng bé kháu khỉnh trong niềm sung sướng tột cùng. Người chồng bảo:
–
Trời Phật đã thương mà nhận lời chúng ta, thì chúng ta phải cố sống làm
sao cho xứng với tình thương ấy. Tôi dự tính trích thêm một số bạc nhà
mình để sửa lại chùa, mình thấy thế nào?
– Thì mình tính sao em nghe vậy, ân đức này cao bằng trời biển, biết bao nhiêu mà sánh bằng được?
Và thế là ngôi chùa đã được người chồng bỏ tiền ra sửa sang lại khang trang hơn trước.
Đứa bé đầy tháng thì ông mang đến lễ chùa tạ ơn và được đặt tên là Phúc để nhớ đến ân phúc Trời Phật đã ban cho vợ chồng họ.
Thằng
Phúc chóng lớn và khôn ngoan thấy rõ, mới lên ba mà đã ăn nói như người
lớn vậy, hai vợ chồng cảm thấy vô cùng sung sướng và hạnh phúc khi có
một người con như thế.
Những
tưởng cảnh đầm ấm này sẽ được dài lâu, ngờ đâu sự việc đến không như họ
nghĩ, vì cũng năm đó, người vợ lâm bạo bệnh rồi đột ngột qua đời, dù
người chồng đã tìm đủ thầy, chạy đủ thuốc.
Người
chồng chỉ biết ôm con mà khóc, không ngờ tình cảnh lại thay đổi một
cách éo le và nhanh chóng như vậy, mới hôm nào gia đình còn hạnh phúc
tràn trề mà nay đã gãy gánh giữa đường, phải chịu cảnh gà trống nuôi
con.
Sự
đời như thế vẫn chưa yên vì cái rủi vẫn đeo bám ông, quá nhớ thương vợ
và khóc lóc nhiều nên mắt ông sưng lên, vài tháng sau thì mờ dần, không
nhìn rõ được.
Năm
đó lại xảy ra hạn hán, mất mùa, người ăn xin đông như kiến, ông lại có
tính hay giúp người nên cơ ngơi của ông cứ thế mà vơi dần.
Nạn đói đã bắt đầu xảy ra, người ta giành giật nhau từng củ khoai, bụi sắn mà không còn nghĩ gì đến tình làng nghĩa xóm.
Thấy
ông bị mờ mắt, con trai thì còn nhỏ dại, bọn gia nhân của ông ngày
trước đói quá hóa liều, đêm hôm ấy chúng đột nhập vào nhà bắt trói cha
con ông lại rồi tha hồ vơ vét thóc lúa bạc tiền.
Không
nhìn thấy gì nên ông chỉ biết tri hô lên cầu cứu, bọn ác nhân liền
phang ông một gậy để ông im miệng vì sợ lộ tung tích, thằng bé Phúc còn
nhỏ quá nên chỉ biết sợ hãi nhắm tịt mắt lại rúc vào người cha để tránh
nạn.
Bọn cướp vét hết tài sản của ông rồi bỏ đi, để lại thằng bé khóc lóc ngơ ngác bên xác cha mình.
May
mà ông chỉ bị ngất đi chứ không chết. Khi người làng hay tin đến cứu
thì bọn cướp đã cao chạy xa bay, giờ đây cha con ông chỉ còn cái xác nhà
không và mảnh vườn trơ trụi. Ông ôm lấy con mà an ủi:
– Cu Phúc đừng khóc nữa. Bố còn sống đây là được rồi. Thế nào bố cũng có cách gầy dựng lại, cho con ăn học thành người…
Tuy mắt bị mờ, không còn nhìn thấy rõ, nhưng ông vẫn không chịu thua số phận, cố gắng hy sinh tất cả vì con.
Thấy
con đói, ông lùng sục khắp nơi để lặt từng mớ rau, dò dẫm đào từng củ
khoai, củ chuối, lặn lội mò cua bắt ốc để nuôi con qua ngày đoạn tháng.
Trời cũng không phụ lòng nên cha con ông vẫn sống sót được, thoát qua khỏi mùa đói khắc nghiệt năm ấy.
Ông
làm lại từ đầu để gầy dựng cơ nghiệp và lo cho con ăn học, dù có phải
làm thuê làm mướn, cực khổ trăm bề, ông cũng không từ nan bất cứ việc
gì, miễn sao có cái ăn cho thằng Phúc và gởi nó theo học với thầy đồ
trong làng, vui cùng chúng bạn cùng tuổi.
Năm
tháng qua đi, Phúc mỗi ngày một khôn lớn và người cha mỗi ngày một già
đi, ông vẫn âm thầm lo cho con ăn học mà không quản khó nhọc và sức lực
hao mòn.
Ngày con trai lên kinh ứng thí là ngày người cha mừng đến rơi nước mắt, vì ước vọng của ông bao lâu nay đã thành hiện thực.
Con đi rồi, ông lần ra thắp hương nơi mộ vợ mà rằng:
–
Xin mình chứng giám cho lòng thành của tôi, có thương con thì cầu xin
cho nó được đỗ đạt, làm quan vinh hiển để đổi đời cho nó, còn tôi thì
phận già ra sao cũng được. Trước sau sống đời chung thủy với mình, vui
vầy sớm hôm với con với cháu.
Quả
nhiên, người con trai đỗ á khoa kỳ thi năm ấy và được cử làm quan tri
huyện trong vùng. Người cha nghe tin mừng không kể xiết, thế là tâm
nguyện đã thành, ông nghĩ vợ mình chắc cũng đang mỉm cười nơi suối vàng
khi biết con trai đã công thành danh toại.
Quan
tri huyện Phúc nhậm chức được hai năm thì lấy vợ, nàng là con gái của
một phú ông trong vùng, do đó mà cuộc sống cũng khá giả và hạnh phúc.
Khi
con đã thành đạt thì người cha bây giờ mắt đã lòa đi nhiều, bao nhiêu
sức lực đã hao phí khi còn trẻ để làm lụng lo lắng cho con, bây giờ tuổi
già, sức yếu, chẳng làm gì được, chỉ biết sống bám vào con trai cho
trọn vẹn tuổi già.
Quan
tri huyện thấy cha đã già yếu, nên lo lắng chăm sóc cho cha rất chu
toàn, khiến người cha lấy làm mãn nguyện và sung sướng trong lòng vì
mình đã có một người con hiếu thảo.
Ngày
tháng trôi đi nhanh như vó câu băng qua cửa sổ, vợ chồng quan tri huyện
cũng có một người con trai xinh xắn và dễ thương như vợ chồng ông ngày
trước.
Mặc
dù mắt ông đã mờ nên ông không nhìn thấy rõ gương mặt cháu nội, nhưng
ông cũng mường tượng ra được ít nhiều qua tiếng nói, cử chỉ, ông thấy
thằng bé cũng thông minh và sáng dạ như thằng Phúc khi xưa, gia đình ông
lại đầm ấm và tràn ngập tiếng cười.
Ngày
đứa cháu nội lên bốn thì sức ông đã yếu lắm, tay chân run lẩy bẩy, mỗi
lần ăn uống thật là khó khăn, mắt mờ nên ông không nhìn thấy, làm thức
ăn đổ trong đổ ngoài, người con dâu phải dọn dẹp mãi nên lâu ngày thành
ra khó chịu.
Đã
vậy cứ đôi ba hôm ông lại làm rơi vỡ một cái chén, vì tay ông cứ run
cầm cập nên không giữ chặt được, ông cũng lấy làm ngại lắm nhưng không
biết làm thế nào vì sức mình đã yếu lắm rồi.
Người
con dâu thấy vậy tiếc của nên không dám dọn chén kiểu cho ông nữa vì
ông cứ làm rơi hoài, cô nàng thay bằng chén sành để lỡ có đánh rơi thì
cũng ít hao hơn. Quan huyện lúc đầu không đồng ý, nhưng sau cũng nghe
theo lời vợ vì nghĩ rằng mắt cha đã mờ, đâu có phân biệt được chén kiểu
hay chén sành.
Nhưng rồi chồng chén sành cũng ngày một vơi đi vì ông cứ đánh rơi mãi khiến vợ chồng quan huyện không biết xử trí thế nào nữa.
Người vợ bèn nghĩ ra một cách, liền bảo chồng:
–
Hay là ta kiếm cái gáo dừa làm chén để dọn cho cha ăn, nếu lỡ rơi xuống
đất thì cũng đâu có bể, khỏi phải mất công thay chén khác.
– Không được, ai lại làm thế với cha bao giờ! Thiên hạ biết được thì còn coi mình ra gì.
– Nhưng cứ mỗi ngày đánh rơi một cái thì làm sao mình kham nổi, vả lại mắt cha mờ nên có thấy gì đâu, chén gì thì cũng vậy thôi.
Người
chồng cứ phân vân mãi, nhưng rồi thấy vợ nói cũng phải, nghĩ rằng chắc
cha cũng chẳng nhìn thấy gì nên giấu mọi người trong nhà, lấy cái gáo
dừa đẽo gọt miệng cho phẳng để làm chiếc chén theo như lời vợ.
Đứa
cháu nội ngạc nhiên khi nhìn thấy chiếc chén cơm của ông làm bằng gáo
dừa, có rơi xuống đất cũng không bị bể, nó cảm thấy lạ lắm, nhưng không
lộ ra nét mặt nên bố mẹ nó đâu có biết.
Mỗi
lần ăn cơm, cầm chiếc chén trên tay, ông nhận ra ngay đó là chiếc gáo
dừa, nhưng ông không nói ra vì sợ mất mặt con mình, dù sao con trai mình
cũng là tri huyện trong vùng. Tuy vậy, trong lòng ông đau như bị muối
xát, chỉ biết âm thầm nén lại mà thôi.
Hôm
nọ, quan tri huyện đi công cán ở xa về, nghe lục đục bên hông nhà liền
cùng vợ bước đến xem, họ thấy con trai mình đang cầm dao đẽo gọt hai cái
gáo dừa khô…
Họ lấy làm lạ hỏi:
– Này, con đang cầm dao nghịch gì thế? Không khéo đứt tay bây giờ!
Đứa bé hồn nhiên bảo:
–
Dạ con đang bắt chước cha đẽo gọt hai cái gáo dừa này thành hai cái
chén, phòng khi sau này cha mẹ già yếu dọn cơm cho cha mẹ ăn, lỡ có đánh
rơi cũng không bị bể cha ạ.
Hai vợ chồng nghe vậy thì điếng cả người, không ngờ con trai mình lại nói thế, nhưng không trách nó được, vì nó nói đúng quá.
Lòng
hiếu thảo và tình thân chợt dâng đầy, vợ nhìn chồng, rồi chồng nhìn vợ,
cả hai bật khóc, họ hối hận vì những sai lầm của mình đối với người cha
già đáng kính, đã hy sinh trót một đời vì mình.
Thế rồi hai vợ chồng chạy vào trong phòng, quỳ sụp dưới chân người cha mù lòa, vừa khóc vừa nói:
–
Cha ơi, xin cha hãy tha lỗi cho chúng con, cha đã hy sinh một đời vì
con, thế mà chúng con đã ngu ngốc khi đối xử với cha như vậy…
–
Dù muôn nghìn chén vàng chén bạc cũng không sánh nổi lòng cha đối với
chúng con. Vợ chồng con nguyện khắc dạ ghi tâm và xin cha tha cho tội
bất kính này.
Từ
đó vợ chồng người con đối xử với cha rất là hiếu thảo cho tới ngày ông
qua đời. Chuyện đứa bé gọt cái chén gáo dừa kia đã thức tỉnh lòng ta đối
với đấng sinh thành, vì công ơn ấy cao tựa Thái Sơn, biết lấy gì bù lại
cho xứng được?!