Ngày
ấy vào thời vua Lê chúa Trịnh có hai vợ chồng một người nho sinh họ Lê,
nhân ngày cuối năm dắt nhau về thăm quê quán trong Thanh. Sau mấy năm
đi làm ăn xa, họ có để dành được một số bạc nhỏ đưa về định làm vốn sống
ở quê nhà. Qua bến đò Khuốt, họ đi vào giữa làng Đa-giá-thượng. Đến đây
trời đã xế chiều lại lấm tấm mưa. Thấy thế, người chồng quyết định nghỉ
lại trong một cái quán bên đường. Làng Đa-giá-thượng bấy giờ vẫn có một
ổ gian phi lớn, chuyên cướp của giết người. Khách bộ hành đi qua đây
thường thường nghỉ lại vì chỉ ở đây mới có dân cư quán xá, lại có chỗ ăn
chỗ trọ tươm tất. Mà khi khách đã nghỉ lại thì kẻ nào coi chừng tay nải
nằng nặng, lại cô đơn, là đêm đến sẽ có người kéo lên núi xô xuống một
cái hang sâu và kín gần Kẽm-trống. Thế rồi những món đồ cướp được sẽ tùy
công lao mà chia nhau giữa mọi huynh thứ trong làng. Chúng giữ việc đó
rất kín. Có những tiếng lóng thay cho tiếng nói thường. Từ bao lâu, hang
núi thiên tạo đó như một cái giếng sâu, là mồ chung của bao nhiêu mạng
người vô tội. Thế nhưng, bề ngoài đối với vua quan, đối với người các
làng khác, chúng vẫn là những kẻ làm ăn lương thiện. Khi hai vợ chồng
bước vào quán, bà hàng chạy ra đỡ chiếc thúng khảo trên tay người đàn
bà.
– Ông bà đến vừa đúng dịp! Hôm nay lại đang sẵn rượu ngon và nhắm tốt.
Trời
mùa đông, ăn xong thì đã không trông rõ mặt người. Nhà hàng dọn sẵn
giường chiếu để cho họ nghỉ. Nhưng khi những cánh liếp vừa hạ xuống được
một chốc, thì ở ngoài đường có tiếng hỏi vọng vào.
– Nhà hàng mai cho chúng tôi mượn bò với nhé!
– Có!
– Bò béo bò gầy?
–
Bò béo. Bà chủ quán thản nhiên trả lời rồi dọn dẹp đi ngủ. Hai vợ chồng
yên tâm trèo lên giường, bỏ cái tay nải ra gối đầu. Và rồi họ ngủ thiếp
đi. Đêm ấy vào khoảng canh hai, trong quán đã có mấy tên lực lưỡng lẻn
vào từ lúc nào. Người nho sinh họ Lê vẫn còn mê man trong giấc mộng. Mấy
chén rượu có pha thuốc mê làm anh chàng chẳng còn biết gì trời đất.
Nhưng người vợ thì vẫn tỉnh táo. Bọn cướp xông lại ấn giẻ vào miệng
người chồng và lôi đi sềnh sệch. Người vợ toan la lên thì tên cướp thứ
hai đã giơ lưỡi dao sáng loáng. Thấy hắn sắp động vào người, nàng quỳ
xuống lẩm bẩm: “Thiếp cắn rơm cắn cỏ lạy ông. Ông tha cho, thiếp xin nhớ
ơn trọn đời”. Ngọn đuốc khoa vào mặt nàng.
Nàng
còn trẻ và rất xinh đẹp. Tên cướp bỗng thấy động lòng. Hắn giục: “Thế
thì đi. Nhưng khôn hồn hãy ngậm mồm lại. Hễ kêu lên thì chớ chết!” Thế
rồi, trong khi đi đường, tên cướp nghĩ ra được một kế để được chung chăn
gối với người đàn bà có cặp mắt rất xinh kia. Hắn sẽ gửi nàng ở nhà một
người thủ hạ tin cẩn, nhờ giấu kín cho, rồi khi về chỉ đưa đôi hoa tai
ra trình mọi người là ổn. Từ đó tên cướp thường lui tới chỗ ở của người
vợ mới không cheo cưới của hắn. Thỉnh thoảng hắn biếu nàng một bộ xà
tích hay mấy vuông lụa. Nàng không phải lo gì đến cái ăn cái mặc, đã có
người hầu hạ chu tất. Nhưng nhất thiết nàng không được bước chân ra khỏi
buồng, luôn luôn cửa đóng kín mít. Người đàn bà ấy đành nhắm mắt tuân
theo như một kẻ không hồn. Dần dần nàng hiểu rõ cách sinh nhai của lũ
cường bạo. Nhưng nàng vẫn cố nuốt những giọt nước mắt, vui vẻ đón tiếp
kẻ thù của mình để hắn thí cho chút sống thừa. Tuy nhiên, chỉ được năm
tháng là việc tên cướp giấu nàng ở đây bị bại lộ. Ba ngày trước, xã
trưởng rỉ tai bảo hắn: “Nếu anh không hạ thủ ngay thì đã có những người
khác cho anh xuống hang cùng với con mụ ấy”. Lệ làng đặt ra ai nấy đều
phải tuân theo răm rắp. Tất nhiên hắn không thể phá lệ làng. Đêm ấy cơm
xong, hắn đưa nàng lên núi. Hơn cả lần trước, lần này nàng van lạy hắn
rất thảm thiết. Nhưng bây giờ trái tim hắn không còn lay chuyển. Hắn
bảo:
– Ta làm phúc cho nàng xuống suối vàng với chồng cho có bạn!
Khi
sắp đến miệng hang, người đàn bà bỗng nhiên bỏ chạy. Nhưng hắn đã đuổi
theo và bắt được ngay. Đúng vào lúc hắn đẩy nàng xuống hang thì không
ngờ nàng cũng níu chặt lấy áo hắn. Cả hai người cùng lăn tòm vào vực
sâu. May mắn làm sao nàng lại nhanh tay thả hắn ra và bám được vào một
nhánh cây mọc chìa ra ở lưng chừng. Thế rồi người đàn bà ấy lần mò rất
khó nhọc, cuối cùng lên được khỏi miệng hang. Và nàng cứ nhằm hướng Bắc
đi luôn một mạch.
* * *
Nói
chuyện ngày hôm ấy xa giá chúa đi qua cửa Đại Hưng. Khi đội tiền vệ vừa
qua cầu thì vợ của chàng nho sinh họ Lê xấu số từ dưới gầm cầu chạy vụt
lên quỳ ngay giữa đường cái. Đầu nàng đội một lá đơn trắng. Bị quân
lính xua đuổi, nàng không chịu lùi, chỉ sửa lại vành khăn trắng, bảo họ:
“Lạy các bác, tiện thiếp oan ức tày trời xin cho gặp chúa thượng”. Thấy
có tiếng ồn ào đằng trước, chúa sai dừng kiệu, cho đòi khổ chủ đến hỏi
chuyện. Nghe người đàn bà kể xong, chúa lập tức rút bảo kiếm, sai viên
tham tướng mang ngay 2.000 quân mã đi gấp ngày đêm vào Đa-giá-thượng với
lệnh: “tiền trảm hậu tấu”. Thế rồi sau đó hai ngày, có một thầy lang
bán thuốc, vai đeo cái tay nải đỏ nặng trĩu đi qua đò Khuốt rồi tiến vào
làng. Chưa vào quán, khách đã trao tay nải cho bà hàng và giục rượu inh
ỏi. Chỉ một chốc khách đã say mềm, không còn nghe gì những tiếng trao
đổi “bò béo bò gầy” giữa chủ quán với người ngoài cổng. Chưa đến lúc đi
ngủ, khách đã bị trói giật cánh khỉ và điệu lên hang. Nhưng lần này vừa
sắp đến hang thì một tiếng hô vang làm cho bọn cướp giật nẩy mình. Từ
bụi rậm xông ra một toán lính với mã tấu sáng lòe cởi trói cho khách và
trói lũ sát nhân lại. Rồi từ bốn phía chân núi, bốn phía làng, tiếng reo
hò, tiếng trống, tiếng mõ vang trời động đất của hai ngàn quân sĩ. Ngày
hôm sau, làng Đa-giá-thượng bị triệt hạ. Nhà cửa, tre pheo, cây cối đều
bị san phẳng. Đất đai và ruộng phân phát cho cả tỉnh: mỗi làng được một
mảnh ruộng con, ngày nay vẫn còn gọi là ruộng kỳ tại. Bọn cướp hết thảy
bị tử hình: đàn ông đều chém ngang lưng, đàn bà một hạng bỏ rọ trôi
sông, một hạng sung làm thị tỳ ở các nhà quan. Người ta còn bắt được một
quyển sổ ghi từng năm một bao nhiêu bò béo, bao nhiêu bò gầy, bao nhiêu
vàng bạc, bao nhiêu tiền và vật hạng. Một số quân sĩ được lệnh đẵn tre
làm thang xuống hang rồi thòng dây xúc hài cốt của những người vô tội
lên thiêu hóa.